TIN VUI

Tuần san Bạn trẻ Công Giáo  -  Số 124 Xuân Mậu Tý 2008 CN 04.02.2008

 

 

Web site :www.tinvui.org E-mail : bantreconggiao@yahoo.com

Text Box: Ban biên tập Tin vui kính chúc Đức Hồng Y,Quý Đức Cha, Quý Cha, quý Cộng tác viên và quý bạn đọc gần xa Năm Mới Mậu Tý 2008 tràn đầy Phúc lộc bình an của Thiên Chúa
XUÂN MẬU TÝ 2008
 

MỤC LỤC

 

 Chúa Nhật I Mùa Chay

Lễ Giao Thừa.

Thiên Chúa, cội nguồn của hạnh phúc.

Mồng Một Tết – Cầu bình an cho năm mới

LỘC BÌNH AN..

Mồng Hai Tết –Kính nhớ tổ tiên và ông bà mẹ.

ĐẠO HIẾU..

Mồng ba Tết – Thánh hóa công ăn việc làm..

LÀM VIỆC..

DỊP TẾT GẶP GỠ CHÚA..

Ngày lễ hội gia đình tại Madrid.

Sứ điệp của Đức Thánh Cha Biển Đức 16 nhân Ngày Thế Giới các bệnh nhân lần thứ 16: 11-2-2008.

Lá Thư Mục Tử Mùa Xuân Mậu Tý của Ðức Hồng Y Phạm Minh Mẫn.

MỪNG XUÂN MỚI TÌM VỀ CỘI NGUỒN..

LỜI CHÚC ĐẦU NĂM...

TẾT NGUYÊN ĐÁN TẠI THỦ ĐÔ THĂNG LONG GIỮA THẾ KỶ 17.

Mồi cứng khô. Nhưng kiên nhẫn cắn gặm thế nào cũng thành công!

NĂM TÝ NÓI CHUYỆN CHUỘT..

Nguồn gốc và ý nghĩa những từ Tết

TÌM HIỂU MÙA CHAY..

MÙA XUÂN CỦA TÌNH YÊU..

Môi trường Giáo Dục Gia Đình.

ĐỪNG QUÊN NGƯỜI NGHÈO KHỔ & CHỊU THIỆT THÒI!

KỶ NIỆM 75 NĂM ĐỨC MẸ HIỆN RA TẠI BANNEUX (NƯỚC BỈ)

SỐNG CHỮ NHÂN..

BÀI II : THỰC HÀNH ĐỨC ÁI NHÂN..

Bữa cơm gia đình ngày Tết

Cẩn thận với những “cú sốc” tâm lý.

DẤU CHÂN CỦA THẦY..

 

SỐNG LỜI CHÚA

 

Chúa Nhật I Mùa Chay A

Mt 4, 1-11

"Chúa Giêsu nhịn ăn bốn mươi ngày đêm, và chịu cám dỗ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu được Thánh Thần hướng dẫn vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ. Khi Người đã nhịn ăn bốn mươi đêm ngày, Người cảm thấy đói. Và tên cám dỗ đến gần, nói với Người rằng: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy khiến những hòn đá này biến thành bánh". Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: "Có lời chép rằng: 'Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra'".

Bấy giờ ma quỷ đưa Người lên Thành thánh, và đặt Người trên góc tường Đền thờ, rồi nói với Người rằng: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy gieo mình xuống đi, vì có lời chép rằng: Ngài đã ra lệnh cho các Thiên Thần đến với ông, và chư vị đó sẽ nâng đỡ ông trên tay, để ông khỏi vấp chân vào đá". Chúa Giêsu đáp: "Cũng có lời chép rằng: 'Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi'".

Quỷ lại đưa Người lên núi rất cao, và chỉ cho Người xem thấy mọi nước thế gian và vinh quang của những nước đó, rồi nói với Người rằng: "Tôi sẽ cho ông tất cả những cái đó, nếu ông sấp mình xuống thờ lạy tôi". Bấy giờ Chúa Giêsu bảo nó rằng: "Hãy lui đi, hỡi Satan! Vì có lời đã chép: 'Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi, và chỉ phụng sự một mình Ngài'". Bấy giờ ma quỷ bỏ Người. Và các thiên thần tiến lại, hầu hạ Người. Đó là lời Chúa.

 

 

1.         Đức Giêsu được Thần Khí dắt vào hoang địa

 

Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan, Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu đậu trên đầu tấn phong cho Người, sai đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó. Sau đó, Đức Giêsu được Thần Khí dắt vào hoang địa ăn chay, cầu nguyện ròng rã 40 đêm ngày

 

Biến cố này cho ta thấy: việc ăn chay, cầu nguyện và gặp gỡ thân tình với Thiên  Chúa trong nơi cô tịch là một chuẩn bị cần thiết để “người của Thiên Chúa” chu toàn sứ mạng mà Chúa uỷ thác. Thời gian 40 ngày đêm cũng gợi ta nhớ đến ông Môsê ở trên núi Xinai cầu nguyện để chuẩn bị lãnh nhận hai  bia đá ghi thập giới. Đó cũng là thời gian ngôn sứ Êlia trở về núi thánh Hôrép vì sự truy đuổi của hoàng hậu Ideven. Vị ngôn sứ đã được gặp Chúa  trong một ngọn gió hiu hiu thổi, rồi can đảm trở lại Itraen tiếp tục sứ mạng của mình.

 

Chính vì vậy, khi thời gian ăn chay chấm dứt, ma quỷ đã tìm đến cám dỗ Đức Giêsu đến ba lần. Nhưng Người đã mau lẹ đáp trả lại bằng những lời Kinh Thánh, qua đó nói lên sự lựa chọn dứt khoát của Người. sự lựa chọn đó là : Lời của Thiên Chúa rất quan trọng trong cuộc sống con người. Đừng bao giờ con người thử thách Thiên Chúa, nhưng luôn tin tưởng phó thác nơi quyền năng của Người. phải thờ phượng một mình Thiên Chúa, vì Ngài là Đấng toàn năng vượt trên tất cả muôn loài, muôn vật. Thật ra ba cám dỗ này gợi lại những thử thách đối với dân Itraen khi xưa trong sa mạc và họ đã vấp ngã. Còn Đức Giêsu sau khi ăn chay cầu nguyện; được đầy Thần Khí, Người đã chiến đấu và đã chiến thắng khiến ma quỉ phải thất vọng bỏ đi.

 

2.         Xin Thần Khí giúp ta sống 40 ngày chay thánh.

 

Theo Thánh Phêrô (1Pr5, 8-9): trong cuộc sống người Kitô hữu luôn phải chiến đấu trước cơn cám dỗ của ma quỉ, chúng như những con thú dữ, luôn rình cho lúc con người buông thả, mất cảnh giác để tấn công, để  sâu xé. Cần phải cậy dựa vào đức tin mà chống cự.

 

Đồng thời người Kitô hữu cũng ý thức được thân phận yếu đuối, dòn mỏng của mình. Thế những ai tự phụ vào khả năng của mình trước sự tấn công của quỉ dữ, người đó sẽ dễ bị thất bại. Kinh nghiệm từ vườn Cây Dầu trong đêm Thứ Năm sau bữa tiệc ly cho ta thấy : Trong khi Đức Giêsu cầu nguyện tha thiết với Chúa Cha, nhờ đó Người đã thi hành trọn vẹn thánh ý Cha giữa cơn thử thách còn các tông đồ lại quá tin vào sức mạnh của những thanh gươm, để lúc Thầy bị bắt, các ông bỏ chạy tán loạn. Phêrô là người hăng hái nhất lại là người lỗi phạm nặng nề nhất.

 

Vì thế, mỗi người tín hữu cần phải tận dụng 40 ngày chay thánh này mà ăn chay hãm mình, thao luyện tinh thần, qui hướng con người chúng ta về với Thiên Chúa. Cần những giây phút thinh lặng để lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện thân tình với Chúa và để xin Thần Khí Chúa ban cho chúng ta nguồn sức mạnh thần thiêng mà vượt qua những thử thách triền

miên trong cuộc sống hầu hướng tới một mùa Phục sinh chan hoà niềm vui, ân sủng và bình an

 

Lm Phaolô Nguyễn Thực

Mục lục

 

XUÂN MẬU TÝ 2008

Lễ Giao Thừa

Thiên Chúa, cội nguồn của hạnh phúc

 

Ngày đầu Xuân ta chúc nhau câu hạnh phúc, ngày đầu Xuân ta chúc nhau câu an bình, ngày đầu Xuân ta chúc nhau vạn sự may mắn…Có lẽ nét văn hoá chung nhất của toàn thể nhân loại này trong ngày đầu Xuân là những lời chúc tốt đẹp  dành cho nhau. Ngày Xuân luôn là ngày của niềm vui, tình yêu và hạnh phúc, ngày đó không thể là ngày của khổ đau, bất hạnh và hận thù. Cho dầu thế nào đi nữa thì ngày Xuân mọi người luôn cố gắng dành cho nhau những gì tốt đẹp nhất. Đối với nhau như thế để ước mong rằng một năm mới sẽ tới đầy may mắn, thuận lợi và bình an. Thiên Chùa nguồn mạch của hạnh phúc, chắc chắn cũng luôn thi ân giáng phúc cho nhân loại chúng ta. Ngài chính là nguồn cội của hạnh phúc.

 

  1. Hạnh phúc đến từ Thiên Chúa.

 

Trong trang Tin Mừng của đêm Giao Thừa, Giáo Hội mời gọi chúng ta lắng nghe lại BÀI GIẢNG TRÊN NÚI của Chúa Giêsu, được coi như Hiến Chương Nước Trời, trong đó Chúa Giêsu quảng diễn cho chúng ta hiểu thế nào là hạnh phúc đích thực và phương thế để đạt được hạnh phúc ấy. Hạnh phúc đến từ nơi nào ?. Hạnh phúc đích thực chỉ có nơi Thiên Chúa. Nào là Nước Trời là gia nghiệp; được Thiên Chúa thỏa mãn ước mơ, được thấy Thiên Chúa…Thiên Chúa mới là Đấng mang lại hạnh phúc. Và con người đạt được hạnh phúc thông qua việc sống và thực thi Tám Mối Phúc. Tám MốiPhúc trở nên con đường đi tới hạnh phúc. Trong những ngày đầu Xuân, mọi lời chúc đều hướng đến ước mơ thoả mãn khao khát hạnh phúc của con người. Ước mơ ấy có thành hiện thực hay không tuỳ thuộc vào chính mỗi người biết thực hiện ước mơ ấy như thế nào ? Ước mơ vẫn mãi chỉ là ước mơ nếu chỉ biết chúc nhau đầu môi chót lưỡi. Ước mơ vẫn hoàn ước mơ nếu tự thân mỗi người không biết nỗ lực cộng tác với Chúa sống Tám Mối Phúc Thật. Tám Mối Phúc vừa là lời chúc lành của Thiên Chúa, vừa là lời hứa của Ngài và cũng là ân sủng mà Ngài tặng ban để con người đạt được hạnh phúc.

 

  1. Hạnh phúc đến từ sự trao ban.

 

Sống tinh thần Tám Mối Phúc là sống mối tương quan với Chúa và với nhau. Tinh thần Tám Mối Phúc cho thấy người ta chỉ có hạnh phúc thực sự nếu biết cho đi, nếu biết sống vì người khác. Ai là người hạnh phúc đích thực ? Không phải là người giàu sang, nổi tiếng, có địa vị, thành công ở đời, cũng không phải là những vĩ nhân, thiên tài mà là những người xem ra chả là gì trong xã hội cả. Họ là những người nghèo hèn, khiêm nhu, hiền lành nhưng lại đầy lòng quảng đại bác ái, sống đời sống công chính, biết xây dựng hoà bình và can đảm hy sinh vì chính đạo. Đây là điều khiến mỗi người Kitô hữu trong ngày đầu năm phải suy nghĩ ? Tiêu chuẩn hạnh phúc của Chúa Giêsu đưa ra khác hẳn với những ước mơ hạnh phúc của chúng ta. Những ước mơ hạnh phúc Tài–Lộc–Thọ phải chăng không phù hợp với lời mời gọi của Tin Mừng. Chắc chắn không phải thế, vấn đề ở chỗ biết đi tìm và mưu cầu hạnh phúc cho người khác. Hạnh phúc chỉ có thể có và gia tăng nếu biết trao ban. Tài – Lộc–Thọ có để làm gì ? Không phải để hưởng thụ nhưng là để làm cho người, cho đời có được niềm vui và hạnh phúc như mình. Càng biết cho đi, hạnh phúc càng dâng tràn, càng viên mãn. Chính Chúa Giêsu là tấm gương cho Kitô hữu trong việc đi tìm kiếm hạnh phúc. Chẳng ai từ bỏ bản thân, hiểu rõ nỗi khốn cùng của nhân loại, rộng thương xót, ao ước thi hành ý Chúa, thẳng thắn và đơn sơ xây dựng hoà bình, cam chịu bắt bớ vì chính đạo bằng Người. Và Người sống như thế với mục đích duy nhất là đem lại niềm vui, hạnh phúc cho nhân loại. Những lời chúc mừng của ngày đầu Xuân phải trở nên lời động viên thúc đẩy mỗi người đi tới hành động cụ thể mang lại hạnh phúc cho nhau. Lời cầu chúc của mỗi người dành cho nhau không chỉ gói ghém mong muốn dành cho nhau những điều thiện hảo mà còn là lời hứa sẽ quyết tâm sống vì nhau, cho nhau và với nhau để cùng nhau tặng ban hạnh phúc.

 

  1. Hạnh phúc Năm Mậu Tý một mơ ước nhỏ bé.

 

Ngày đầu Xuân mơ về hạnh phúc cho Năm Mới, nhận ra rằng hạnh phúc  đích thực chỉ đến từ Thiên Chúa và từ sự trao ban cho nhau, nhưng đồng thời cũng là dịp để nhìn lại một năm đã qua. Giờ khắc Giao Thừa”ôn cố tri tân”, giờ khắc của chuyển đổi từ cũ sang mới; giờ khắc của tiếp nối những gì đã qua vươn tới những gì sắp đến ; giờ khác của nhìn lại và hướng tới. Vẫn là những ước mơ muôn thuỡ, vẫn là những lời chúc triền miên qua nhiều năm tháng và vẫn là những công việc còn dở dang cần phải tiếp tục trong Năm Mới này. Ước mơ hạnh phúc của năm nay có lẽ cũng chỉ nhỏ bé thôi, nhỏ bé thôi. Ước sao Năm Giáo Dục Kitô thực sự mang lại kết quả tốt đẹp. Làm sao có người biết đi tìm hạnh phúc cho tha nhân ? Tất cả đều nhờ ở thành quả của giáo dục. Giáo dục từ trong gia đình, đến giáo xứ và rộng ra toàn xã hội. Giáo dục toàn diện từ đời sống nhân bản, tri thức đến đời sống đức tin.

 

Ước mơ sao mọi thành phần dân Chúa trong Giáo hội và mọi người trong xã hội đều đồng tâm nhất trí quyết tâm canh tân sự nghiệp giáo dục để tạo nên những con người hữu ích cho gia đình, cho xã hội và Giáo hội, có khả năng  mưu cầu hạnh phúc và mang lại hạnh phúc cho người khác.

 

Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng

Mục lục

 

 

Mồng Một Tết – Cầu bình an cho năm mới

LỘC BÌNH AN

Ngày Mồng Một Tết, ngày linh thiêng nhất trong năm, ngày cầu bình an cho năm mới. Mỗi xứ đạo đều tổ chức hái lộc đầu xuân.

Lộc Thánh là những câu Lời Chúa được tuyển chọn trong Thánh Kinh. Lộc được treo trên những nhánh mai vàng rực rỡ đặt trên Cung Thánh. Sau bài giảng, Cha chủ tế hái Lộc Đầu Xuân. Lần lượt Hội Đồng Mục Vụ, các đoàn thể, đại diện gia đình lên hái Lộc.

Sau thánh lễ, mọi người ra về mang theo niềm vui và hạnh phúc, bình an và Ơn Thánh. Gia đình sum họp trước Bàn Thờ đọc kinh nguyện, dâng một năm mới lên Chúa và Đức Me. Người cha hoặc mẹ trịnh trọng mở Lộc Thánh đọc cho cả nhà nghe. Mỗi Lộc thích hợp với từng gia đình. Lộc Thánh được đặt trang trọng trên bàn thờ, dưới chân thập giá. Câu chuyện ngày tết đi thăm nhau thường hàn huyên về Lộc Lời Chúa mỗi nhà.

Lời Thánh Vịnh 27 nói lên niềm cậy trông: “Tôi vững vàng tin tưởng, sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống. Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào!Hãy cậy trông vào Chúa.

Vững vàng tin tưởng và cậy trông vì người Kitô hữu xác tín vào Lời Chúa Giêsu dạy: “Các con cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ thì sẽ mở cho”. (Mt 7,7).

 

Không phải bây giờ người ta mới hái lộc. Từ ngàn xưa, thửơ địa đàng đã có chuyện người con gái đi hái lộc đầu xuân rồi. Ngày khai sinh vũ trụ đã được sách Sáng thế kể lại :

Trời đất trống không mông quạnh và tối tăm bao phủ ,

Thiên Chúa phán : Hãy có ánh sáng .

Và đã có ánh sáng. Thiên Chúa thấy ánh sáng thật là tốt lành .

Thiên Chúa phán : Đất hãy xanh um thảo mộc tươi tốt .

Và đã xảy ra như vậy. Đất lên màu xanh . Cây có quả đã sinh quả .

Cây có hoa đã nở hoa . Thiên Chúa  thấy màu xanh thật tốt lành .

Thiên Chúa đã làm hai cái đèn, cái lớn cai quản ban ngày, cái nhỏ cai quản ban đêm.Thêm vào Ngài trang điểm bầu trời bằng các sao.Thiên Chúa thấy thế thật tốt lành . ( St 1,1-4 )

Đó là ngày Tết đầu tiên của nhân loại. Trầm Hương rất thi vị trong bài ca “Bước chân người hái lộc trường sinh” : vũ trụ chào đời, mùa xuân về theo gió, nắng phủ cho rừng lá xanh, muôn hoa xinh tươi vẫy gọi .Thiên Chúa chúc lành trao quyền làm chủ muôn loài cho Nguyên Tổ với một điều kiện duy nhất là phải tuân phục “Mọi cây trong vườn ngươi đều được ăn. Nhưng cây ”sự biết tốt xấu” ngươi không được ăn, vì chưng ngày nào ngươi ăn nó, tất ngươi phải chết” ( St 2,16-17).          

Adam,Evà phơi phới trong hạnh phúc mùa xuân địa đàng.

Thế rồi một hôm, Evà đi dạo một mình trong vườn Eden, ngang qua cây biết lành biết dữ. Bước chân Evà rạo rực đi hái lộc trường sinh nhưng xui xẻo gặp phải Satan quyến rũ. Lời Satan đường mật : Evà, Evà ơi ,cô có muốn giữ mãi nhan sắc tuyệt vời này không ? hay cô có muốn bằng Đức Chúa Trời không ? Evà phản kháng :không dám đâu, không dám đâu, đừng dụ dỗ tôi,Thiên Chúa đã dặn kỹ lắm rồi. Sau một hồi đôi co lý sự, con rắn ngọt ngào : ”Chẳng chết chóc gì đâu, Thiên Chúa biết ngày nào người hái lộc ấy mà ăn mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu” (St 3,4-5). Người thiếu nữ thấy giấc mơ đẹp như màu hồng của trái táo “nhìn thì đã thấy sướng mắt” (St 3,6). Nàng đã hái. Nàng đã ăn. Nàng chia cho chồng với ước mơ hão huyền là chồng được thông minh như Thiên Chúa.

Còn Adam thì sao ? Một cuộc đấu tranh quyết liệt giữa tiếng lương tâm và lời nài nỉ của người yêu : ăn đi anh, ăn đi, đây là cơ hội ngàn vàng, cơ hội chúng ta bằng Đức Chúa Trời đó anh ; Adam đừng ăn, nếu ăn sẽ vi phạm luật Chúa truyền, đừng, xin đừng.

“Và ông đã ăn” ( St 3,6). Lời Thánh Kinh ngắn gọn diễn tả sự yếu đuối, nhu nhược đến sa ngã của Adam trước cám dỗ quá ư dịu ngọt. Thôi rồi, xong hết cả rồi, còn đâu địa đàng, còn đâu ân nghĩa Thiên Chúa dành cho ngươi, Adam ơi !

Mắt họ liền mở ra và họ thấy mình trần truồng nên kết lá vả che thân” ( St 3,7). Lời bài ca “Vườn Địa Đàng” của Trầm Hương man mác buồn : Adam, anh đi về đâu đó, bên kia, bên kia trời lộng gió, tiếng Giavê vẫy gọi trong nắng chiều. Adam, anh đi về đâu đó, Adam, quên đi lời Thiên Chúa, hái trái trăng ngon ngọt nhưng đắng cay. Adam, sao anh lại chạy trốn, bóng Giavê đứng đợi bên gió ngàn. Adam, quên ân tình Thiên Chúa, xoá tan đi nụ cười trong nắng mai.

Kể từ đó Địa đàng đóng ngõ cài then. Xuân địa đàng đã thành mùa đông ảm đạm cho trần thế. Kinh thánh viết về một nỗi đớn đau làm sao : “Những gai cùng góc nó sẽ mọc lên cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ lả ngoài đồng nội. Mồ hôi đẫm mặt, ngươi mới có bánh ăn cho đến lúc ngươi về lại với bụi đất” ( St 3,18-19) .

Đó là sự tích hái lộc đầu năm, mùa xuân êm đềm thành chìm vắng lặng lẽ .

Và cũng từ đó lời kinh cầu luôn vang vọng qua các thế hệ “Trời cao hãy đỏ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng chuộc tôi. Trời cao hãy đỏ sương xuống và ngàn mây hãy mưa đấng cứu đời”. Nhân loại đã biết mình thiếu thốn lộc gì, họ đã muốn giơ tay hái Lộc Trời Cao.

Thiên Chúa đã nghe tiếng vọng cầu kinh. Lộc Trời Cao đã gởi xuống đất thấp, Lộc Đấng Cứu Thế. Con Thiên Chúa vào đời trồng cây Thập giá. Lộc Thập giá của Ngài nối lại tình người với tình thánh.Thánh giá Chúa Kitô là nhịp cầu liên kết con người với Thiên Chúa và con người với nhau. Sự giao hoà ấy nẩy Lộc Bình An. Tặng vật cao quý mà Chúa lưu lại cho nhân loại là Lộc Bình An : “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con, bình an mà thế gian không thể ban được” ( Ga 14,27). Sau khi Phục sinh, gặp các môn đệ, lời đầu tiên của Chúa là : Bình an cho các con ( Ga 20,19). Tám ngày sau, trở lại thăm họ, Chúa vẫn một lời chào : Bình an cho các con (Ga 20,26). Sai các môn đệ ra đi truyền giáo Chúa căn dặn : “Vào nhà nào, trước tiên hãy nói : bình an cho nhà này”( Lc 10,5).

Bình an không chỉ là lời cầu chúc mà còn là sự sống để ban tặng cho nhau. Lộc Bình An là chính Chúa, ai xa lìa Ngài là đánh mất sự bình an.

Chúa là Lộc Đầu Xuân của mỗi gia đình, mỗi người. Một ngày có Chúa sẽ tràn đầy xuân hạnh phúc và lộc bình an .

Lối vào vườn Eden, dấu chân người xưa hái lộc vẫn còn in nét vẫy gọi.

Lối lên đồi Canvê, lời chúc bình an vẫn mãi vọng ngân.

Chúa ơi, đầu năm hái lộc, con phải chọn lựa, lối nào con đi ?

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Mục lục

 

 

Mồng Hai Tết –Kính nhớ tổ tiên và ông bà mẹ

ĐẠO HIẾU

 

Hôm nay là ngày cầu nguyện cho Ông bà cha mẹ. Khi nghĩ về ông bà cha mẹ, chắc ai trong chúng ta cũng chợt nhớ tới mấy câu ca dao :

 

“Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”

 

Không biết ai là tác giả của bài thơ này, nhưng rõ ràng là bài thơ quá hay. Từ ngữ được sử dụng tuy rất bình dân nhưng hàm chứa những quan niệm và những giáo huấn rất sâu sắc.

 

Chúng ta hãy đặc biệt chú ý đến những từ trong hai câu thơ thứ ba và thứ tư. Câu thứ ba là “Một lòng thờ mẹ kính cha”; tác giả đã diễn tả tâm tình của con cái đối với cha mẹ là “thờ” và “kính”. Khi học giáo lý, chúng ta đã biết “kính” là tâm tình của con người đối với Đức Mẹ và các Thánh ; còn “thờ” là bổn phận của con người đối với chính Thiên Chúa. Trong bài ca dao này, tác giả dạy kẻ làm con cháu chẳng những phải “kính” mà còn phải “thờ” ông bà cha mẹ nữa. Ở đây có một đểm tế nhị về thần học tín lý, một khác biệt tinh tế giữa tâm thức người phương tây với tâm thức người Á Đông. Tâm thức người phương tây hiểu “thờ”  là tâm tình của thụ tạo dành cho Đấng tạo hoá. Vì thế, người phương tây nghĩ rằng chỉ được “thờ” một mình Thiên Chúa mà thôi. Còn người Á Đông chúng ta thì rất biết ơn ông bà cha mẹ nên nghĩ rằng đối với ông bà cha mẹ, chỉ mến hay kính mà thôi thì chưa đủ, cho nên đã dùng chữ “thờ” cho cả cha mẹ ông bà mình nữa. Tuy nhiên chúng ta không “thờ” ông bà cha mẹ như “thờ “ Chúa, nghĩa là không bao giờ coi ông bà cha mẹ như những vị chúa tể tạo thành trời đất muôn vật. Còn câu thứ tư” Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Ở đây, tác giả coi hiếu thảo là “đạo”, chẳng khác nào một tín ngưỡng, một tôn giáo. Tóm lại, chẳng những tôn  kính Chúa, Đức Mẹ và các thánh, con cháu cũng phải tôn kính ông bà cha mẹ mình ; và lòng hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ không chỉ là những tình cảm tự nhiên theo bản năng mà còn là một bổn phận thiêng thánh, một thứ tín ngưỡng, một thứ tôn giáo. Nói cách khác, chúng ta không chỉ giữ đạo đối với Thiên Chúa, Đức Mẹ và các thánh, mà còn phải thờ kính ông bà cha mẹ mình nữa.

 

Tại sao ông bà cha mẹ được đề cao đến nỗi gần bằng Chúa như vậy? Câu hỏi thật dễ trả lời :  vì công ơn ông bà cha mẹ hết sức to lớn, chỉ kém Thiên Chúa mà thôi. Thiên Chúa thì dựng nên chúng ta và quan phòng chăm sóc chúng ta. Còn ông bà cha mẹ thì sinh ra và dưỡng dục chúng ta. Tác giả bài ca dao đã nhìn khắp chung quanh để lựa chọn những hình ảnh xứng đáng so sánh với công ơn của ông bà cha mẹ, và tác giả đã chọn được hai hình ảnh to lớn vĩ đại nhất trong thiên nhiên chung quanh, đó là hình ảnh ngọn núi cao sừng sửng cùng với hình ảnh biển cả mênh mông : “Công cha như núi Thới Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.”

 

Từ khi mới sinh ra tới nay, chúng ta sống với tình thương của cha mẹ, chúng ta sống trong sự che chở ấp ủ của mẹ cha, chúng ta sống bằng mồ hôi nước mắt và công ơn trời biển của các ngài. Nhưng như con chim đang nhởn nhơ bay lượn trong bầu trời có mấy khi nhớ đến bầu trời bao la đang bao bọc nó,  và cũng như con cá đang tung tăng bơi lội có mấy khi ý thức dòng nước đại dương đang ấp ủ nó, thì chúng ta cũng vậy, có mấy khi chúng ta nhớ đến công cha nghĩa mẹ. rất nhiều khi còn ngỗ nghịch làm cha mẹ đau lòng. Quả thực, chúng ta có tội và tội rất nhiều đối với những bậc sinh thành của chúng ta. Hôm nay Giáo hội dành một ngày đặc biệt để chúng ta cầu nguyện cho các ngài.

 

 

Trước hết hãy cầu nguyện cho những ông bà cha mẹ đã qua đời. Khi các ngài còn sống, rất tiếc là chúng ta đã không  tròn chữ hiếu. Nay các ngài đã  qua đời, chúng ta xin Chúa cho linh hồn các ngài sớm được vui hưởng bình an và hạnh phúc trong nhà Cha trên trời.các ngài xứng đáng được hưởng hạnh phúc ấy vì các ngài đã chu toàn bổn phận Chúa trao trong những tháng năm còn sống dưới trần thế.

 

Tiếp đến, chúng ta hãy cầu nguyện cho ông bà cha mẹ hiện đang còn sống với chúng ta. Nay các ngài đã già, xin cho tuổi già của các ngài được ấm cúng với tình con nghĩa cháu thảo hiền. các ngài nay cũng yếu rồi, xin cho các ngài được an ủi bởi lòng biết ơn và việc sớm hôm viếng thăm phụng dưỡng của chúng ta. Xin cho những tháng năm còn lại của các ngài là những năm đầy tràn hạnh phúc với con cháu dưới thế này, trước khi các ngài được an hưởng bình an hạnh phúc trọn vẹn và mãi mãi với Chúa trên trời.

 

Sau cùng, chúng ta cầu nguyện cho chính chúng ta. Bấy lâu nay chúng ta đã không giữ tròn chữ hiếu với ông bà cha mẹ. Xin Chúa tha thứ cho chúng ta.  Chúng ta nguyện từ nay sẽ kính trọng và yêu thương ông bà cha mẹ hơn, quan tâm phụng dưỡng các ngài chu đáo hơn, tìm nhiều dịp để làm cho các ngài vui lòng hơn, nhất là sống đời sống đạo tốt đẹp hơn để các ngài được sung sướng vinh dự hơn vì con cháu.

 

Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

Giám đốc Đại Chủng Viện Thánh Quý ,Cần Thơ

Mục lục

 

 

 

 

Mồng ba Tết – Thánh hóa công ăn việc làm

LÀM VIỆC

 

Ca dao có câu : “Tháng giêng là tháng ăn chơi, tháng hai trồng đậu trồng khoai trồng cà…”Có lẽ thời trước người ta nhàn hạ hơn nên dám bỏ ra cả một tháng để “ăn chơi”. Còn thời nay chúng ta chỉ ăn Tết một vài ngày. Nhưng dù xưa hay nay, dù ăn Tết cả tháng giêng hay chỉ một vài ngày thì sau đó cũng phải làm việc trở lại.

 

Nghĩ đến  công việc phải làm trong năm mới, có người thì ngao ngán, nhưng dù ngán cũng vẫn phải làm; có người thì dửng dưng chẳng suy nghĩ gì cả, làm thì làm vậy thôi. Phần chúng ta, Giáo Hội dành ra ngày mồng 3 Tết để cầu nguyện cho công ăn việc làm trong năm. Hôm nay chúng ta hãy dựa vào Lời Chúa để suy nghĩ về việc làm của chúng ta trong năm sắp tới.

 

Nếu đọc kỹ bài đọc thứ nhất trích sách Sáng thế có lẽ chúng ta sẽ ngạc nhiên. Xưa nay chúng ta tưởng rằng hai ông bà nguyên tố trong vườn Địa đàng chỉ ở không và hưởng thụ, không phải làm gì cả. Nhưng sách Sáng thế nói Thiên Chúa cho ông bà ở trong vườn địa đàng để “canh tác và giữ vườn” .Địa đàng là hình ảnh của hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc ấy con người phải “canh tác” nghĩa là phải làm việc để tạo ta. Và con người cũng cần phải “giữ vườn” nữa, nghĩa là hạnh phúc ấy con người phải giữ gìn thì nó mới tồn tại và con người mới tiếp tục được hưởng nó. Như vậy, bài trích sách Sáng thế cho ta thấy mục đích thứ nhất của việc làm là để tạo ra hạnh phúc và giữ gìn hạnh phúc cho mình. Nói cách khác, mục tiêu thứ nhất của làm việc là “vì mình”.

 

Bài đọc thứ hai trích từ sách Công vụ ghi lời Thánh Phaolô nói với các kỳ mục trong giáo đoàn Êphêsô rằng : “Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giêsu đã dạy : cho thì có phúc hơn là nhận. Thánh Phaolô  cho ta biết mục tiêu thứ hai của làm việc là “vì người khác”, đặc biệt là những người đau yếu, túng thiếu; làm để có của mà “cho “ người khác.   Thánh Phaolô nhắc lại lời Chúa Giêsu rằng “cho thì có phúc hơn là nhận”.

Bài Tin Mừng cho biết thêm : để chúng ta có thể làm việc vì mình và vì người khác. Thiên Chúa đã ban cho mỗi người chúng ta một số nén bạc, tức là những khả năng. Người thì nhiều, người thí ít nén. Nhiều hay ít không quan trọng. Điều quan trọng là phải sử dụng những khả năng Chúa ban để  mà làm việc. Người đầy tớ trong dụ ngôn bị quở phạt không phải vì đã không sinh lời nhiều bằng những đầy tớ khác, mà vì đã chôn dấu những khã năng Chúa ban, tức là đã không làm việc.

 

Tóm lại, Lời Chúa hôm nay soi sáng cho chúng ta một số điều :

 

Thứ nhất, làm việc là điều tốt đẹp cao cả. Ngay từ khi mới tạo dựng con người, dù Thiên chúa cho nguyên tổ được sống hạnh phúc trong vườn Địa  đàng, nhưng nguyên tổ vẫn phải canh tác và giữ gìn hạnh phúc được tượng trưng bằng khu vườn Địa đàng ấy.

 

Thứ hai, chúng ta làm việc không chỉ vì mình mà còn để phục vụ và giúp đỡ những người khác, nhất là những người khốn khổ hầu như chỉ nhắm đến mỗi một mục tiêu là “vì mình” chứ không nhắm đến “vì người khác”

 

Thứ ba, mặc dù có người tài giỏi có nhiều khả năng, có người kém cỏi hơn vì có ít khả năng, nhưng ai cũng có khả năng Chúa ban để làm việc. Có lẽ trước mắt người đời, người nhiều khả năng nên làm việc và có hiệu năng hơn thì được coi trọng hơn. Nhưng trước mắt Chúa, “hiệu năng” không quan trọng bằng “siêng năng” Chúa sẽ trọng thưởng cho người “siêng năng” làm việc.

 

Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy dâng lên Chúa  tất cả những việc chúng ta sẽ làm trong năm cùng với những loao nhọc cực khổ chúng ta sẽ gặp phải khi làm việc.

 

Xin Chúa giúp chúng ta cảm thấy hạnh phúc trong công việc.

 

Xin Chúa giúp để việc làm của chúng ta đem lại của cải đủ nuôi sống bản than và gia đình chúng ta.

 

Xin Chúa mở rộng lòng, rộng tay của chúng ta để chúng ta biết chia sẻ  thành quả công việc cho những người túng thiếu.

Linh mục Carôlô Hồ Bặc Xái

Giám đốc Đại Chủng Viện Thánh Quý Cần Thơ

 

Mục lục

 

 

 

TU ĐỨC

DỊP TẾT GẶP GỠ CHÚA

 

 

Những ngày Tết, thường ai cũng bận rộn. Bận rộn lớn nhất là làm đẹp các liên hệ của mình. Đối với người Công giáo, thì liên hệ với Chúa dịp tết phải là ưu tiên số một. Làm đẹp liên hệ đó bằng nhiều cách. Cách tốt nhất là gặp gỡ Chúa. Gặp gỡ thế nào ? Tôi xin phép gợi ý. Gợi ý này dựa theo Kinh Thánh và kinh nghiệm.

 

Cảm tạ Chúa giàu lòng thương xót

 

Tôi tạ ơn Chúa vì mọi ơn Chúa đã ban cho tôi, cho các người thân của tôi, cho cộng đoàn của tôi, cho Hội Thánh tôi và quê hương tôi.

 

Để tạ ơn,trước hết tôi nhận ra các ơn lành. Không phải nhận ra cách chung chung, nhưng nhận ra từng loại, từng trường hợp, từng ơn riêng với tên của nó.

 

Riêng tôi, tôi nhận ra mấy ơn sau đây là những hồng ân quý giá nhất.

 

TRƯỚC HẾT LÀ ơn gắn bó với tình yêu Chúa Giêsu và luôn trung thành với tình yêu ấy.

 

Gắn bó và trung thành với tình yêu Chúa Giêsu là một hành trình đầy chiến đấu cam go.

 

Thánh Phaolô viết : “Tôi tin chắc rằng : Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào,  trời cao hay vực thẳm, hoặc bất cứ một loài thụ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu cũa Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta“ (Rm 8, 38-39).

 

Khi đọc đoạn thư trên, tôi nghĩ thánh Phaolô không những đã viết về Ngài và về cộng đoàn của Ngài, mà cũng viết về chúng  ta tại Việt Nam hôm nay.

 

Chúng ta đã phải đối mặt với biết bao gian truân dưới nhiều hình thức. Có những thách đố, có những cám dỗ, có những vu khống, có những nhục mạ, có những cạm bẫy. Chúng đến từ ngoài và đến từ trong. Nhưng chúng ta vẫn gắn bó và trung thành với tình yêu Chúa Kitô Giêsu hiền lành và khiêm nhường. Đó là một ơn trọng đại.

 

Cùng với ơn gắn bó và trung thành với tình yêu Chúa là ơn cầu nguyện.

 

Không phải cứ đọc kinh là cầu nguyện, nhưng cầu nguyện là để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn lời cầu. Thánh Phaolô viết : “Hơn nữa lại có Thánh Thần giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải. Nhưng chính Thánh Thần cầu nguyện giúp cho chúng ta bằng những tiếng rên xiết khôn tả. Và Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm can, biết Thánh Thần muốn nói gì, và Thánh Thần cầu thay nguyện giúp cho các thánh theo đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8, 26-27).

 

Tối ngày 20.1.2008 vừa qua, đài Truyền hình Việt Nam đã chiếu một cảnh cầu nguyện trên đường phố tại một nước xa Việt Nam. Quá khích, cực đoan, cuồng tín. Thấy mà ghê sợ. Rất may là cảnh đó không xảy ra ở Việt Nam. Nhưng chúng ta cũng phải luôn nhờ ơn Chúa Thánh Thần mà cảnh giác. Chính Chúa Thánh Thần sẽ dẫn đưa chúng ta đến việc quan trọng thứ hai cần thực hiện trong dĩp Tết. Việc quan trọng đó là cầu xin ơn  bình an.

 

Cầu xin ơn bình an

 

Bình an là lời chúc truyền thống trong dịp Tết. Bình an là nhu cầu cần thiết nhất trong năm mới.

 

Chúng ta gởi tới nhau lời chúc bình an. Chúng ta thực sự mong muốn bình an cho mình, cho mọi người thân, cho Hội Thánh và cho Quê Hương.

 

Cùng với lời chúc bình an, chúng ta nhớ mình được Chúa sai vào năm mới như sứ giả hoà bình và như dụng cụ bình an.

 

Nhận thức mình được sai đi như thế, ta hết lòng cầu nguyện với Chúa, xin Người ban cho chính mình ta được bình an. Tất nhiên đây là sự bình an của Chúa như lời Chúa đã phán : “Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban cho các con bình an của Thầy. Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng” (Ga 14, 27).

 

Bình an của Chúa là thế nào ?

 

Chúa sẽ soi sáng cho ta lời đáp, khi ta cầu nguyện và đọc Kinh Thánh .

 

Ta sẽ dần dần nhận ra sự thực này : Bình an của Chúa được xây dựng trên tình yêu khó nghèo và khiêm tốn.

 

Tình yêu khó nghèo và khiêm tốn, trước hết ở sự mỗi người chúng ta nhận ra chỗ đứng khiêm tốn của mình trong Hội Thánh.

 

Hội Thánh là một thân thể nhiệm mầu. Thân thể đó có nhiều chi thể khác nhau. Mỗi chi thể có một vị trí riêng thích hợp. Mỗi chi thể được Chúa trao cho một trách nhiệm riêng, với sự sai đi khác nhau. Chấp nhận sự sắp xếp của Chúa rồi, mỗi người cố gắng chu toàn bổn phận Chúa trao với tất cả lương tâm vâng phục ý Chúa, đó là tình yêu khiêm tốn, khó nghèo.

 

Khi cố gắng chu toàn bổn phận của mình, chúng ta luôn giữ lòng ta khó nghèo, tinh thần thơ ấu thiêng liêng phó thác trọn vẹn. Tình yêu khiêm tốn khó nghèo đó sẽ là nguồn bình an cho ta.

 

Tình yêu khiêm tốn khó nghèo còn là một tình yêu theo sát tình hình và dấu chỉ thời đại.

 

Người sứ giả hoà bình của Chúa không yêu thương phục vụ một cách xa rời thực tế. Nhưng họ  sẽ là người của lịch sử thể theo từng chặng đường thời cuộc. Lịch sử như một dòng sông. Nước chảy không quay trở lại. Mỗi chặng của dòng chảy có những chuyển biến riêng. Chuyển biến đó là những dấu chỉ. Cần phải theo sát những chuyển biến đó, để xây dựng hoà bình.

 

Thí dụ : Sang năm mới này, Việt Nam sẽ có nhiều thay đổi. Thay đổi về thời tiết, thay đổi về giá cả, thay đổi về giáo dục, thay đổi về mức sống, thay đổi về bầu khí tôn giáo. Phải nghiên cứu những thay đổi đó, để đi vào lịch sử. Trước những thay đổi ấy, ta thấy có những việc cần làm ngay, cả những việc nên làm, nhưng chưa đến lúc  làm, có những việc lỗi thời nếu làm sẽ là phản chứng. Thiết tưởng đó là tình yêu khiêm tốn, khó nghèo.

 

Với  chia sẻ  trên đây, tôi tin sẽ được sống trong bầu khí gia đình đầm ấm của  Chúa trong dịp Tết này. Một gia đình vui tươi, một gia đình cầu nguyện, một gia đình tạ ơn. Như lời thánh Phaolô viết : “Anh em hãy vui mừng luôn mãi, và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu” (Tx 5, 16-18).

 

Được sống trong một gia đình như thế sẽ là một hạnh phúc. Hạnh phúc này sẽ đưa tôi đến một hạnh phúc khác, đó là được thuộc trọn về Chúa. Nhờ vậy, tôi sẽ yêu thương và phục vụ trên đường vâng phục ý Chúa mãi mãi muôn đời.

 

ĐGM GB Bùi Tuần

Mục lục

 

 

HIỆP THÔNG GIÁO HỘI

Ngày lễ hội gia đình tại Madrid

 

Phỏng vấn ông Kiko Arguello, người sáng lập phong trào Con Đường Tân Dự Tòng, về Ngày Lễ Hội Gia Đình tại Madrid 30 tháng 12 vừa qua

 

Chúa Nhật 30-12-2007 lễ Thánh Gia Thất, 2 triệu tín hữu từ khắp nơi bên Tây Ban Nha đã tuốn về quảng trường Colón trong thủ đô Madrid để tham dự ”Ngày Lễ Gia Đình”, do phong trào Con Đường Tân Dự Tòng cùng tổ chức với nhiều hiệp hội và phong trào công giáo, với sự yểm trợ của Hội Đồng Giám Mục Tây Ban Nha. Ba đại lộ chính dẫn đến quảng trường cũng chật ních người tham dự. Cùng tham dự cũng đã có phái đoàn các nước Bồ Đào Nha, Đức và Áo. Hiện diện tại buổi lễ có 42 vị Hồng Y, Tổng Giám Mục và Giám Mục. Các gia đình tham dự ngày lễ đã đem theo nhiều biểu ngữ đề cao và bảo vệ gia đình truyền thống gồm một người nam và môt người nữ, chống lại các hình thức lệch lạc ngày nay.

 

Giảng trong buổi cử hành Lời Chúa trước 2 triệu tín hữu hiện diện, Đức Hồng Y Antonio Maria Rouco Varela, Tổng Giám Mục Madrid, nói: ”Nếu có ai hỏi chúng ta đâu là ý nghĩa của buổi cử hành lớn này, thì chúng ta phải trả lời rằng các gia đình Tây Ban Nha muốn công khai làm chứng rằng trong kinh nghiệm của gia đình chúng ta khám phá ra, nhận lãnh và sống Ơn Tình Yêu Thương như của đầu mùa để sống vì tình yêu thương và với tình yêu thương mọi trạng huống riêng tư và công cộng của cuộc sống. Chúng ta cống hiến chứ không áp đặt chứng tá của chúng ta, bằng cách cầu xin Thánh Gia Thất cho chứng tá này được lương tâm xã hội và văn hóa hiểu biết. Chắc chắn khi cho thấy sự thật về tế bào đầu tiên của cuộc sống xã hội, chúng ta không thể không nhắc lại rằng trật tự tư pháp Tây Ban Nha đã có các bước thụt lùi đối với bản tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hiệp Quốc, công bố cách đây 60 năm, khẳng định rằng gia đình có quyền được xã hội và Nhà Nước bảo vệ. Cần phải trở lại với khẳng định ấy, mà ”không đưa ra các mưu mô biện chứng”.

 

Trong buổi đọc kinh Truyền Tin lúc 12 giờ trưa, qua hệ thống trực tiếp truyền hình, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã ngỏ lời với tín hữu tham dự ngày lễ gia đình tại Madrid. Đức Thánh Cha khẳng định rằng sự kiện Thiên Chúa muốn sinh ra bởi một người nữ và đi vào thế giới qua cuộc sống như tất cả mọi người, cho thấy Thiên Chúa đã thánh hóa thực thể gia đình, đổ tràn đầy ân sủng xuống gia đình và mặc khải ơn gọi và sứ mệnh của nó.

 

Tiếp đến Đức Thánh Cha nhắc lại giáo huấn Công Đồng Chung Vaticăng II về gia đình, trong đó hai vợ chồng hiện hữu cho nhau và cho con cái trong tư cách là chứng nhân cho lòng tin và tình yêu của Chúa Kitô... Thiện ích của con người và của xã hội gắn liền mật thiết với ”sức khoe” của gia đình. Vì thế Giáo Hội nỗ lực bảo vệ và cổ võ phẩm giá và giá trị linh thiêng của hôn nhân và gia đình.

 

Đức Thánh Cha mời gọi các gia đình Kitô can đảm chấp nhận sự hiện diện trìu mến của Thiên Chúa trong cuộc đời mình; đồng thời làm chứng trước mặt thế giới về vẻ đẹp của tình yêu, hôn nhân và gia đình. Gia đình được xây dựng trên sự kết hiệp bất khả phân ly giữa một người nam và một người nữ, tạo nên môi trường đặc biệt, nơi mà cuộc sống con người được đón tiếp và che chở từ lúc khởi đầu cho đến khi chết tự nhiên. Vì thế các bậc làm cha mẹ có quyền lợi và nghĩa vụ căn bản phải giáo dục con cái, theo đức tin và những gía trị thăng tiến đời sống con người. Vì thế hoạt động cho gia đình và cho hôn nhân là điều thật bõ công, cũng như thật bõ công hoạt động để bảo vệ sự sống con người, là thụ tạo cao qúy nhất do Thiên Chúa dựng nên.

Đức Thánh Cha cũng đặc biệt chào thăm các thiếu nhi và xin các em cầu nguyện cho cha mẹ và anh chị em của mình. Ngài cũng chào thăm các bạn trẻ và kêu gọi họ quảng đại theo đuổi ơn gọi hôn nhân, giáo sĩ và tu sĩ, nhờ tình yêu của cha mẹ thúc đẩy. Đức Thánh Cha cũng chào thăm những người già lão bệnh tật và cầu chúc họ tìm được sự giúp đỡ và cảm thông. Ngài nhắn nhủ các cặp vợ chồng tin tưởng nơi ơn thánh Chúa để tình yêu của họ mỗi ngày được thêm chung thủy và dồi dào.

 

Phát biểu trong buổi lễ gia đình, ông Andrea Riccardi, người sáng lập cộng đồng thánh Egidio nói: ”Trong một thế giới nơi người ta mua bán mọi sự, nơi tất cả đều tạm bợ, gia đình là không gian của sự nhưng không, một sự nhưng không gây vấp, phạm nhưng nó không tạm bợ. Nó ổn định vì được xây dựng trên sự trung thành của tình yêu.. Thế giới cần đến gia đình hơn, vì nó cần sự nhưng không”. Trong sứ điệp gửi các tham dự viên ngày lễ gia đình tại Madrid, chị Chiara Lubich, sáng lập viên phong trào Tổ Ấm, khẳng định rằng hơn bao giờ hết gia đình cần phải được che chở và bảo vệ.

 

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn ông Kiko Arguello, người sáng lập phong trào Con Đường Tân Dự Tòng, về Ngày Lễ Hội Gia Đình tại Madrid 30 tháng 12 vừa qua.

Hỏi: Thưa ông Kiko, nhật báo ”Đất Nước” đã gọi Ngày Lễ Gia Đình tại Madrid là ”sự huy động các đám đông lớn của Giáo Hội Công Giáo”. Ý tưởng quy tụ tín hữu đã nảy sinh như thế nào?

Đáp: Buổi cử hành lời Chúa ngày lễ Thánh Gia Thất tại quảng trường Colón trong thủ đô Madrid, đã bắt đầu do sự hiệp thông của tẩt cả các thực thể của Giáo Hội Tây Ban Nha. Chúng tôi đã đưa đề nghị lên Đức Hồng Y Rouco Varela, Tổng Giám Mục giáo phận thủ đô, và ngài đã chấp nhận như là sáng kiến của tổng giáo phận, có sự tham dự của các Hồng Y, Tổng Giám Mục, Giám Mục. Trước đó thì có việc chia sẻ các chứng từ của các cặp vợ chồng, già trẻ và của một vài nhân vật thuộc các phong trào và hiệp hội khác nhau, như ông Andrea Riccardi người sáng lập cộng đồng thánh Egidio, Linh Mục Julían Carrón Chủ tịch phong trào Hiệp Thông và Giái Phóng, sứ điệp của chị Chiara Lubich, người sáng lập phong trào Tổ Ấm, và đặc biệt là việc trực tiếp theo dõi buổi Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đọc kinh Truyền Tin chung với tín hữu tại quảng trường thánh Phêrô, mà mọi người có thể theo dõi trên các màn hình khổng lồ tại Madrid.

 

Để chuẩn bị cho biến cố này Đức Hồng Y Rouco đã gửi cho tất cả các cha xứ một bức thư rất hay xin các vị để cho các gia đình kể lại chứng từ của họ trong ngày 23 tháng 12 và trong ngày lễ Giáng Sinh.


Hỏi: Như thế là cuộc gặp gỡ đặc biệt chú ý đến sứ điệp Kitô liên quan tới các gia đình?

 

Đáp: Vâng, vì khẩu hiệu của ngày lễ là ”Cho gia đình Kitô”. Và cũng không phải là điều tình cờ, vì Chúa Nhật 30 tháng 12 cũng là ngày kỷ niệm 25 năm Đức Gioan Phaolô II chủ sự lễ kính Thánh Gia Thất tại quảng trường Colón hồi năm 1988, trong đó Đức Cố Giáo Hoàng đã sai các gia đình ra đi với sứ mệnh là ”làm tất cả vì gia đình và không có gì chống lại gia đình”. Nghĩa là tất cả vì gia đình và cho gia đình. Buổi lễ Gia Đình bắt đầu bằng cuộc rước kiệu Đức Mẹ Almudena lên trên khán đài.


Hỏi: Thưa ông Kiko, tình hình gia đình tại Tây Ban Nha hiện nay ra sao?

 

Đáp: Gia đình đã bị tấn kích rất nhiều. Việc cho phép hôn nhân đồng phái đã khuynh đảo ý niệm về gia đình truyền thống. Rồi cái gọi là ”ly dị tốc hành” trong 6 tháng, như các nhật báo đã đăng, đã phá tán 90 ngàn gia đình. Con số các vụ ly dị gia tăng 75%. Đó là chưa nói đến cái gọi là giáo dục công dân. Nhưng đây là vấn đế của toàn Âu châu, chứ không phải chỉ là của Tây Ban Nha mà thôi. Tại Cộng Hòa Liên Bang Đức bà thủ tướng Angela Merkel đã phải thu hồi các sách giáo dục phái tính khỏi trường học vì sự phản đối mạnh mẽ của giới phụ huynh.

 

Hỏi: Trong một tình trạng như thế thì việc kêu gọi chú ý tới các nội dung Kitô có giúp cải tiến được gì không thưa ông?

 

Đáp: Vấn đề đó là hiện nay thiếu sự giáo dục Kitô sâu rộng, và vì thế đứng trước các áp lực của môi trường chung quanh các gia đình gặp khủng hoảng nặng. Ngoài ra sự kiện có một số đông các cặp vợ chồng ly dị, khiến cho tình trạng này trở thành một khuynh hướng không thể tránh được. Thế giới ngày nay hoàn toàn bị lạc hướng. Nó giống như một con tầu vượt đại dương, nhưng không đi về đâu cả. Không có câu trả lời nào cho sự khổ đau, nên khi đó câu trả lời là việc tự tử. Trước tình trạng như thế chúng ta phải mạnh mẽ nói lên rằng sự kiện cuộc sống chúng ta không đi về đâu là điều không đúng. Vì con tầu này đi về thành Giêrusalem thiên quốc.

 

Hỏi: Thưa ông Kiko, sự lạc hướng này của thế giới có các âm hưởng nào trên gia đình?

 

Đáp: Nó phá tán gia đình Kitô và các hậu qủa nghiêm trọng nhất rơi trên đầu người trẻ. Nó liên quan tới tương lai của nhân loại. Chỉ có gia đình Kitô mới trao ban cho người trẻ một căn cước sâu đậm, sự chắc chắn biết rằng họ đã được tạo dựng vì tình yêu thương, do ý muốn của Thiên Chúa. Họ được sinh ra từ sự kết hiệp giữa cha mẹ của họ. Ngoài ra các con cái, cả trong các đặc thái thể lý của họ, cũng diễn tả sự kết hiệp ấy của cha mẹ. Gia đình Kitô cũng trao ban cho người trẻ một nền luân lý và một lòng tin. Điều quan trọng hơn hết là trao ban cho họ một định mệnh vĩnh cửu. Nếu tất cả những điều này bị phá hủy, thì các nền tảng của xã hội cũng bị phá hủy.

 

Hỏi: Đây có phải là điều đang xảy ra tại Bắc Âu không?

 

Đáp: Thật ra chính quyền các nước Bắc Âu rất lo lắng vì có quá nhiều người sống một mình với các hậu qủa tiêu cực như nạn nghiện rượu và tử tự gia tăng. Và tình trạng này đang lan tràn rất nhanh tại các nước như Tây Ban Nha, Italia vv...

 

Cũng chính vì vậy cần cấp thiết tái khám phá ra giá trị của gia đình Kitô.

(Avvenire 29-12-2007; 2-1-2008)

 

Mục lục

 

Sứ điệp của Đức Thánh Cha Biển Đức 16 nhân Ngày Thế Giới các bệnh nhân lần thứ 16: 11-2-2008

 

Anh chị em thân mến,


1. 11 tháng 2, lễ kính Đức Mẹ Lộ Đức, Ngày Thế giới các bệnh nhân được cử hành; đây là cơ hội thuận tiện để suy tư về ý nghĩa đau khổ và bổn phận Kitô hữu đón nhận đau khổ ấy trong bất kỳ hoàn cảnh nào khi đau khổ xuất hiện. Năm nay, dịp kỷ niệm đầy ý nghĩa này gắn liền với hai biến cố quan trọng trong đời sống của Giáo Hội, như chúng ta đã hiểu được ngay từ đề tài được chọn: ” Thánh Thể, Lộ Đức và việc săn sóc mục vụ các bệnh nhân ”: kỷ niệm 150 năm Đức Mẹ Vô Nhiễm hiện ra tại Lộ Đức và cử hành Đại Hội Thánh Thể quốc tế tại Québec, Canada. Đây là cơ hội đặc biệt để cứu xét liên hệ chặt chẽ giữa Mầu Nhiệm Thánh Thể, vai trò của Mẹ Maria trong dự án cứu độ và thực tại khổ đau của con người.


150 năm trôi qua từ các cuộc hiện ra của Đức Mẹ tại Lộ Đức mời gọi chúng ta hướng nhìn về Đức Thánh Trinh Nữ, sự Vô Nhiễm Nguyên tội của Mẹ là hồng ân tột đỉnh và nhưng không Thiên Chúa ban cho một phụ nữ, để có thể tuân hành trọn vẹn ý định của Thiên Chúa với một niềm tin kiên vững và không thể lay chuyển, mặc dù có những thử thách và đau khổ Mẹ sẽ gặp phải. Vì thế, Mẹ Maria là mẫu gương về sự hoàn toàn phó thác cho thánh ý Chúa: Mẹ đã đón nhận Ngôi Lời Vĩnh Cửu trong tâm hồn và chịu thai Chúa trong cung lòng đồng trinh của Mẹ; Mẹ đã tín thác vào Thiên Chúa, và với tâm hồn bị lưỡi gươm đau khổ đâm thâu qua (cf Lc 2,35), Mẹ không do dự chia sẻ cuộc khổ nạn Con của Mẹ, lập lại dưới chân Thánh Giá trên đồi Canvê lời thưa ”xin vâng” của Mẹ trong cuộc Truyền Tin. Vì thế suy tư về sự Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ Maria có nghĩa là để cho mình bị thu hút bởi lời thưa ”xin vâng” đã liên kết Mẹ một cách lạ lùng với sứ mạng của Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc nhân loại; là để cho mình được Mẹ cầm tay dìu dắt để thưa ”fiat”, xin vâng theo thánh ý Chúa trong trọn cuộc sống với những vui buồn, những hy vọng và những điều không được mãn nguyện, với ý thức rằng thử thách, đau đớn và sầu khổ làm cho cuộc lữ hành của chúng ta trên mặt đất thêm phong phú về ý nghĩa.


2. Chúng ta không thể chiêm ngắm Mẹ Maria mà lại không được Chúa Kitô lôi kéo và chúng ta không thể nhìn Chúa Kitô mà không nhận thấy ngay sự hiện diện của Mẹ Maria. Có một mối liên hệ không thể tách rời giữa Mẹ và người Con được sinh ra trong cung lòng Mẹ do hoạt động của Chúa Thánh Linh, và chúng ta nhận thấy mối liên hệ này một cách huyền nhiệm trong Bí Tích Thánh Thể, như các Giáo Phụ và các nhà thần học đã nêu bật ngay từ những thế kỷ đầu tiên. Thánh Hilario thành Poitiers quả quyết: ”Thân xác sinh bởi Mẹ Maria, đến từ Chúa Thánh Linh, là bánh bởi trời mà xuống”, và trong cuốn Nghi thức bí tích ” Sacramentarium Bergomense ”, hồi thế kỷ thứ 9, chúng ta đọc thấy: ”Cung lòng Mẹ đã làm nảy sinh một hoa trái, một bánh làm cho chúng ta được tràn đầy hồng ân thiên thần. Mẹ Maria đã trả lại cho ơn cứu độ điều mà Eva đã phá hủy do tội lỗi của bà”. Rồi thánh Phêrô Damiano đã nhận xét: ”Thân xác mà Đức Trinh Nữ rất diễm phúc đã sinh ra, đã nuôi dưỡng trong cung lòng Mẹ với sự săn sóc từ mẫu, tôi xác quyết thân xác ấy, chứ không phải thân xác khác, chính là Mình Thánh mà chúng ta đón nhận từ bàn thánh, và chúng ta uống máu từ thân xác ấy như bí tích cứu chuộc chúng ta. Đó là điều thuộc về đức tin Công Giáo, là điều mà Hội Thánh trung thành giảng dạy”. Mối liên hệ giữa Đức Thánh Trinh Nữ với Con, là Chiên bị sát tế gánh tội trần gian, được mở rộng tới Giáo Hội là Nhiệm Thể Chúa Kitô. Vị Tôi Tớ Chúa Gioan Phaolô 2 đã nhận xét: Mẹ Maria là ”phụ nữ Thánh Thể” bằng trọn cuộc sống của Mẹ, và khi nhìn Mẹ như mẫu gương của mình, Giáo Hội ”được kêu mời bắt chước Mẹ cả trong quan hệ của mình với Mầu Nhiệm cực thánh này” (Thông điệp 'Ecclesia de Eucharistia', 53). Trong nhãn giới đó, chúng ta càng hiểu rõ hơn tại sao tại Lộ Đức, gắn liền với lòng sùng kính Đức Mẹ Maria có một lời nhắc nhớ mạnh mẽ và liên lỷ về Thánh Thể, qua những buổi cử hành Thánh Lễ hằng ngày, các buổi chầu với phép lành Mình Thánh Chúa cho các bệnh nhân, và đây là một trong những lúc nồng nhiệt nhất trong cuộc hành hương của các tín hữu nơi hang đá Massabielles.


Sự hiện diện của nhiều tín hữu bệnh nhân và những người thiện nguyện tháp tùng họ tại Lộ Đức giúp suy tư về sự chăm sóc ân cần và từ mẫu mà Đức Mẹ biểu lộ đối với những nỗi đau đớn và sầu khổ của con người. Được liên kết với Hy Tế của Chúa Kitô, Mẹ Maria, Mẹ Sầu Bi (Mater Dolorosa), dưới chân Thánh Giá cũng chịu đau khổ với Người Con Thần Linh của Mẹ, và được cộng đồng Kitô đặc biệt cảm thấy gần gũi, một cộng đồng quây quần quanh các phần tử đau khổ của mình đang mang những dấu hiệu thương khó của Chúa. Mẹ Maria cùng chịu đau khổ với những người gặp thử thách, và Mẹ cùng hy vọng với họ và là niềm an ủi cho họ, Mẹ nâng đỡ họ bằng sự phù trợ hiền mẫu. Một điều chân thực là chính kinh nghiệm thiêng liêng của bao nhiêu bệnh nhân đã thúc đẩy họ ngày càng hiểu rằng ”Đấng Cứu Chuộc muốn đi sâu vào tâm hồn của mỗi người đau khổ qua trái tim Người Mẹ rất thánh của Ngài, là hoa quả đầu mùa và là tột đỉnh của mọi người được cứu chuộc” (Gioan Phaolô 2, Tông thư ” Khổ đau cứu độ ”, 26).


3. Nếu Lộ Đức dẫn đưa chúng ta đến chỗ suy niệm về lòng từ mẫu của Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm Nguyên Tội đối với những người con bệnh tật và đau khổ của Mẹ, thì Đại Hội Thánh Thể quốc tế tới đây sẽ là cơ hội để thờ lạy Chúa Giêsu Kitô hiện diện trong Bí Tích bàn thánh, tín thác vào Chúa như Niềm Hy Vọng không bao giờ làm thất vọng, đón nhận Chúa như thần dược bất tử chữa lành thể lý và tinh thần. Chúa Giêsu Kitô đã cứu chuộc trần thế bằng đau khổ, bằng cái chết và sự sống lại của Ngài và đã muốn ở lại với chúng ta như ”bánh sự sống” trong cuộc lữ hành trên mặt đất này. ” Thánh Thể hồng ân của Thiên Chúa cho thế giới được sống ”: Đó là đề tài Đại Hội Thánh Thể, Đại Hội này nhấn mạnh Thánh Thể là hồng ân mà Chúa Cha ban cho thế giới qua chính Con duy nhất của Ngài, nhập thể và chịu đóng đanh. Chính Người tụ hợp chúng ta quanh bàn tiệc Thánh Thể, khơi dậy nơi các môn của của Người sự quan tâm yêu thương đối với những người đau khổ và bệnh nhân, nơi họ cộng đồng Kitô nhận ra tôn nhan của Chúa. Như tôi đã nêu rõ trong Tông Huấn hậu Thượng HĐGM ”Bí tích Tình Thương” (Sacramentum caritatis ), ”các cộng đoàn của chúng ta, khi cử hành Thánh Thể, ngày càng phải ý thức hơn rằng hy tế của Chúa Kitô là cho tất cả mọi người và vì thế Thánh Thể thúc đẩy mỗi tín hữu của Chúa trở nên 'bánh được bẻ ra' cho tha nhân” (n.88). Vị vậy chúng ta được khích lệ dấn thân hàng đầu trong việc phục vụ anh chị em, nhất là những người ở trong tình cảnh khó khăn, vì ơn gọi của mỗi Kitô hữu thực sự là ơn gọi, cùng với Chúa Giêsu, trở thành bánh được bẻ ra cho thế giới được sống.


4. Vì thế, ta thấy rõ, chính từ Thánh Thể mà việc mục vụ sức khỏe phải tín múc sức mạnh thiêng liêng cần thiết để cứu giúp hữu hiệu cho con người và giúp họ hiểu giá trị cứu độ của những đau khổ đang chịu. Như Vị Tôi Tớ Chúa Gioan Phaolô 2 đã viết trong Tông thư ”Khổ đau cứu độ” nói trên, Giáo Hội nhìn thấy nơi các anh chị em đau khổ hầu như thể đó là những chủ thể sức mạnh siêu nhiên của Chúa Kitô (cf n.27). Kết hiệp huyền nhiệm với Chúa Kitô, người chịu đau khổ trong tình thương yêu và ngoan ngoãn phó thác cho thánh ý Chúa, trở thành lễ vật sinh động để cứu độ thế giới. Vị Tiền Nhiệm yêu quí của tôi cũng quả quyết rằng ”hễ con người càng bị tội lỗi đe dọa, và những cơ cấu tội lỗi mà thế giới mang nơi mình càng nặng nề bao nhiêu, thì đau khổ mà con người mang nơi mình càng có tính chất hùng hồn mạnh mẽ bấy nhiêu. Và Giáo Hội càng cảm thấy cần phải nại đến giá trị đau khổ nhân trần để cứu độ thế giới” (ibid.), Vì thế, nếu tại Québec, chúng ta chiêm ngắm mầu nhiệm Thánh Thể như hồng ân của Thiên Chúa cho thế giới được sống, thì trong Ngày Thế giới các bệnh nhân, qua một sự song song tinh thần, không những chúng ta cử hành sự tham gia đích thực của đau khổ con người vào hoạt động cứu độ của Thiên Chúa, nhưng, theo một nghĩa nào đó, chúng ta còn có thể vui hưởng những thành quả quí giá được hứa cho những người tin tưởng. Vì vậy, đau khổ, khi được đón nhận trong đức tin, trở thành cánh cửa để bước vào mầu nhiệm khổ đau cứu chuộc của Chúa Giêsu và cùng với Ngài đạt tới an bình và hạnh phúc phục sinh của Chúa.


5. Trong khi tôi gửi lời chào thân ái tới tất cá các bệnh nhân và những người săn sóc họ bằng nhiều cách khác nhau, tôi mời gọi các cộng đoàn giáo phận và giáo xứ cử hành Ngày Thế giới các bệnh nhân sắp tới, bằng cách làm nổi bật sự trùng hợp phúc lợi giữa việc kỷ niệm 150 năm Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức và Đại hội Thánh Thể quốc tế. Ước gì đây là cơ hội để nhấn mạnh tầm quan trọng của Thánh Lễ, việc Chầu Mình Thánh Chúa và tôn sùng Thánh Thể, làm sao để các nhà nguyện tại các trung tâm y tế trở thành con tim sinh động trong đó Chúa Giêsu không ngừng dâng mình cho Chúa Cha để nhân loại được sống. Cả việc phân phát Thánh Thể cho các bệnh nhân, được thực hiện một cách trang nghiêm và với tinh thần cầu nguyện, cũng là niềm an ủi thực sự cho những người đang chịu đau khổ vì các loại bệnh tật khác nhau.


Ước gì Ngày Thế giới các bệnh nhân tới đây là cơ hội thuận lợi để đặc biệt cầu khẩn sự bảo vệ của Mẹ Maria trên những người đang bị thử thách vì bệnh tật, trên các nhân viên y tế và những người làm việc mục vụ y tế. Đặc biệt tôi nghĩ đến các linh mục dấn thân trong lãnh vực này, các tu sĩ nam nữ, những người thiện nguyện và bất kỳ ai thực sự dấn thân chăm sóc các bệnh nhân và những người túng thiếu trong thân xác và linh hồn. Tôi phó thác tất cả mọi người cho Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta, Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội. Xin Mẹ giúp mỗi người chứng tỏ rằng câu trả lời duy nhất có giá trị đối với đau đớn sầu khổ của con người chính là Chúa Kitô, Đấng đã chiến thắng sự chết khi phục sinh và ban cho chúng ta sự sống không cùng tận. Với tâm tình ấy, tôi chân thành ban phép lành Tòa Thánh đặc biệt cho mọi người.


Vatican ngày 11 tháng 1 năm 2008

Biển Đức 16, Giáo Hoàng

G. Trần Đức Anh OP dịch

Mục lục

 

Lá Thư Mục Tử Mùa Xuân Mậu Tý của Ðức Hồng Y Phạm Minh Mẫn

 

1. Năm 2008 được Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam xác lập như Năm Giáo Dục Kitô Giáo nhằm nhắc nhở giới hữu trách cũng như gia đình Kitô hữu, đặc biệt các bạn trẻ Công giáo, trách nhiệm liên kết với nhau thực hiện công cuộc giáo dục con người, giúp nhau rèn luyện nhân cách, góp phần xây dựng gia đình hạnh phúc và đất nước an bình thịnh vượng trong bối cảnh xã hội ngày nay.

Sức mạnh đổi mới của giáo dục Kitô giáo

2. Con người được tạo thành theo hình ảnh của Thiên Chúa là Tình Yêu. Do đó, mục đích của giáo dục Kitô giáo là tạo khả năng và thuận lợi cho con người thể hiện hình ảnh Cha trên trời là Tình Yêu. Sức mạnh đổi mới của giáo dục Kitô giáo chính là tình yêu thương mà Chúa Thánh Thần đã đổ vào lòng tín hữu từ ngày mỗi người lãnh bí tích Thánh Tẩy. Trong thực tế cuộc sống, tình yêu thương đó mang nhiều tên gọi khác nhau: đó là lòng trung thành đối với Thiên Chúa là Cha yêu thương; lòng hiếu thảo đối với tổ tiên, ông bà cha mẹ đã dày công sinh thành dưỡng dục; lòng chung thuỷ theo giao ước tình yêu; lòng quảng đại từ bi bao dung đối với mọi người trong gia đình và xã hội là anh em một nhà...

3. Lòng trung thành đối với Cha trên trời là sức mạnh giúp người tín hữu luôn mở rộng tấm lòng đón nhận ý Cha và Lời của Người, Lời trong Sách Thánh và nơi Chúa Giêsu Thánh Thể, Lời trong đời sống Giáo Hội cũng như trong truyền thống văn hoá lành mạnh của các dân tộc. Lời Chúa là ánh sáng soi đường, là sức mạnh dẫn lối, là Lời yêu thương mời gọi mọi người tiến đến tận nguồn Chân Lý tròn đầy và sự Khôn Ngoan cao rộng, tận suối Tình Thương bao dung và An Bình, tận mạch Sự Sống dồi dào và Hạnh Phúc vững bền.

4. Lòng hiếu thảo đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ, và lòng chung thuỷ theo giao ước tình yêu, những tấm lòng đó của người tín hữu bắt nguồn từ lòng kính sợ Cha trên trời và tuân hành ý Người là Ðấng đã dựng nên gia đình như một quà tặng cho nhân loại. Người hết lòng thờ cha kính mẹ và chung thuỷ sẽ được ơn sống lâu trong an vui và thành đạt.

5. Lòng quảng đại từ bi bao dung của người tín hữu bắt nguồn từ niềm tin vào Ðức Giêsu Kitô là hiện thân của tình yêu. Ðó là sức mạnh giúp mỗi người dấn bước theo Chúa Giêsu trên đường đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi khinh miệt, đem thuận hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào nơi gian dối, đem đạo lý vào chốn áp bức bất công,... với niềm hy vọng góp phần xây dựng an bình cho gia đình, thịnh vượng lâu dài cho quê hương đất nước.

6. Lòng trung thành với Cha trên trời, hiếu thảo với ông bà cha mẹ, thuỷ chung theo giao ước tình yêu, bao dung với mọi người, những tấm lòng đó, khi được vun tưới và dưỡng nuôi, sẽ phát triển thành bốn cột trụ xây dựng ngôi nhà gia đình hạnh phúc, gia đình của mỗi người, gia đình giáo xứ, gia đình dòng tu, gia đình giáo phận, gia đình Giáo Hội, gia đình dân tộc chúng ta.

Thực hành giáo dục Kitô giáo

7. Giáo dục Kitô giáo là nền giáo dục của Chúa Kitô và Hội Thánh Người đã thiết lập. Chúa Kitô đã đồng hành với các môn đệ cốt cán ngay từ đầu và đã tỏ ra Người là Thầy dạy Chân Lý tròn đầy về Thiên Chúa và con người, là một nhà giáo dục chân chính và mẫu mực. Khi dạy các môn đệ cầu nguyện, Chúa Kitô cũng dạy cho họ bài học thực hành giáo dục Kitô giáo. Kinh Lạy Cha là Chỉ Nam thực hành giáo dục Kitô giáo. Lời Chúa dạy qua kinh Lạy Cha cho chúng ta biết thế nào là một nền giáo dục nhân bản và đạo đức làm người trong trời đất và trong thiên hạ, trong gia đình và trong cộng đồng xã hội, một nền giáo dục toàn diện và mang tính thực hành.

Kinh Lạy Cha: Chỉ Nam thực hành giáo dục Kitô giáo

8. "Lạy Cha chúng con, Cha là Ðấng ngự trên trời...": Cha là nguồn gốc mọi sự, mọi người là con một Cha, là anh em một nhà. Cha là Tình Yêu, Cha tạo thành con người theo hình ảnh của Cha là Tình Yêu. Lời kêu cầu và cũng là lời tuyên tín này mở đầu cho 3 ý nguyện và 3 lời xin.

- "3 ý nguyện" tạo ý thức bày tỏ với Cha quyết tâm thực hiện hành trình cuộc đời làm con trong gia đình, làm người trong cộng đồng xã hội, nhằm thể hiện hình ảnh của Cha là Tình Yêu.

- "3 lời xin" tạo ý thức về những điều con cái đang thiếu, thiếu nhất là lòng quảng đại từ bi bao dung, đồng thời cũng tạo ý thức cho mỗi người có tâm thế an tĩnh và khiêm tốn mở ra, gắn kết với Cha để đón nhận những điều mình cần từ Cha là nguồn gốc mọi sự trên trời dưới đất.

9. Ba ý nguyện: (1) Nguyện Danh Cha cả sáng: danh Cha là Tình Yêu và Cha đã tạo thành con người theo hình ảnh của Cha là Tình Yêu; (2) Nguyện Nước Cha trị đến: Cha đã thương gửi Ngôi Con là hiện thân Tình Yêu để thiết lập Nước Cha là Nước Tình Yêu muôn thuở muôn đời; (3) Nguyện ý Cha thể hiện mọi nơi mọi thời: Cha đã thương ban Thánh Thần là nguồn lực Tình Yêu làm cho mọi người ở mọi nơi và mọi thời có khả năng mến tin Cha và yêu thương nhau. Do đó ngày nay người Kitô hữu được định nghĩa là người được Thiên Chúa yêu thương, đồng thời là người biết kính thờ Chúa và lấy tình bác ái huynh đệ mà đối xử với mọi người trong cộng đồng dân tộc cũng như cộng đồng thế giới, đặc biệt người nghèo khổ.

10. Ba lời xin: (1) Xin Cha ban lương thực hằng ngày. Kỳ thực Cha đã tạo thành vũ trụ và trao cho con người nhiệm vụ quản lý vì sự sống và phẩm giá của gia đình nhân loại, đồng thời Cha cũng đã thương ban cho loài người Lời của Cha là Lời ban bình an, ban ánh sáng chân lý và khôn ngoan, là Lời ban sức sống mới và sự hợp nhất trong gia đình và xã hội; (2) Xin Cha thương ban lòng từ bi bao dung tha thứ. Ðây là điều mà thực tế cuộc sống cho thấy con người thiếu nhất: nhiều đau thương, đổ vỡ, mất mát trong gia đình và xã hội bắt nguồn từ sự vắng bóng lòng bao dung. Họ thiếu lòng từ bi bao dung, vì lẽ không ý thức mở ra và đón nhận Chúa Kitô là hiện thân của Tình Yêu, không đón nhận Lời của Người là Lời yêu thương, không đón nhận Thập giá của Người là Ðường Tình Yêu bao dung từ bi tha thứ; (3) Xin bảo vệ chúng con khỏi mọi sự dữ: thực tế xác minh con người cần liên kết với nhau trong tình huynh đệ tương thân tương trợ để vượt qua nhiều sự dữ, nhiều tiêu cực và tệ nạn xã hội, nhiều bệnh dịch thể xác và tâm thần, nhiều tai nạn và thiên tai trong đất nước.

Amen: Ước mong Cha thương ban ơn trợ giúp cho chúng con sống như vậy.

Giáo dục còn là giúp nhau rèn luyện nhân cách trong đối nhân xử thế

11. Ngày nay mỗi người có thể tìm gặp trong kho tàng kinh nghiệm nhân loại những bí quyết rèn luyện nhân cách trưởng thành, như "đắc nhân tâm trong giao tiếp, thành đạt trong sự nghiệp..." (xem "Ðắc nhân tâm" của Dale Carnegie, những loại sách học làm người...). Kỳ thực, đây là những kinh nghiệm đúc kết những cách thể hiện lòng yêu thương phục vụ cho sự sống và phẩm giá con người, lòng quảng đại từ bi bao dung đối với các đồng nghiệp và mọi người trong xã hội.

12. Bảy điều cần luyện tập để trở nên đắc nhân tâm

(1) Trong mọi tình huống, trong bối cảnh xã hội chuyển biến đổi thay, hãy mở rộng tầm nhìn, để có những suy nghĩ mới, những sáng kiến mới.

(2) Hãy tập ứng xử thân thiện với mọi người, cả lúc bất đồng và tranh cãi.

(3) Hãy mở đường cho người khác đi đến đồng cảm và đồng thuận.

(4) Hãy tạo tương giao chân thành và lành mạnh qua mọi công việc.

(5) Hãy khơi dậy sự hứng khởi cho các cộng sự thi hành trách nhiệm.

(6) Hãy trở nên trợ lực cho các cộng sự hoàn thành nhiệm vụ.

(7) Hãy tạo bầu khí hài hoà cho mọi người cảm thấy an lòng trong nhiệm vụ.

13. Chín bí quyết giúp thành đạt trong sự nghiệp

Muốn thành đạt trong sự nghiệp, ngoài việc tiếp thu kiến thức khoa học và chuyên môn, các bạn trẻ đang giữ vai trò lãnh đạo và quản trị, cần giúp nhau thực hành những cách đồi nhân xử thế như sau:

(1) Hãy luôn khởi đầu bằng lời khích lệ chân thành.

(2) Tưởng thưởng những thành quả, nhẹ nhàng lưu ý những sai sót.

(3) Khi cần đề cập đến những giới hạn của các cộng sự, trước tiên hãy nói về những giới hạn của bản thân mình.

(4) Hãy đặt ra những câu hỏi mở đường cho các cộng sự tự nguyện đảm nhận trách nhiệm, tránh áp đặt và truyền lệnh suông.

(5) Hãy tránh làm mất mặt các cộng sự.

(6) Khi thấy có tiến bộ, hãy có lời khen chân thành.

(7) Tạo ra tiếng tốt cho các cộng sự sống tốt hơn.

(8) Khuyến khích đổi mới và tạo cảm giác sửa sai là điều dễ thực hiện.

(9) Tạo bầu khí phấn khởi khi các cộng sự hoàn thành nhiệm vụ.

14. Kết: Mục đích giáo dục Kitô giáo là nhằm giúp mỗi người Công giáo thể hiện căn tính của mình là tình yêu: người Công giáo là người cảm nhận được Chúa yêu thương và trao ban nguồn ơn cứu độ, đồng thời cảm thấy có trách nhiệm yêu thương và phục vụ mọi người bằng cách thông ơn Chúa đến cho mọi người là con một Cha, là anh em một nhà. Ước nguyện đầu năm mới của tôi là nhà nhà được đầy ơn phúc, và người người, đặc biệt các bạn trẻ kém may mắn và bị bỏ rơi, cảm nhận tình Chúa bao bọc và tình người chở che.

 

Gioan B. Phạm Minh Mẫn

Hồng Y Tổng Giám Mục

Mục lục

 

MỪNG XUÂN MỚI TÌM VỀ CỘI NGUỒN

Vĩnh Long, ngày 21.01.2008


Kính gởi:

Quí Cha,

Quí Tu Sĩ Nam Nữ

Anh Chị Em Giáo Dân Địa Phận Vĩnh Long

Anh Chị Em thân mến,

Năm ĐINH HỢI sắp sửa kết thúc, để nhường chỗ cho năm MẬU TÝ. TẾT NGUYÊN ĐÁN là khởi điểm của Năm Mới, điểm mốc lịch sử quan trọng đối với người Việt Nam chúng ta. Thời tiết xoay vần ‘Xuân đi rồi Xuân lại đến’. Mỗi người sẽ gác lại công việc để VUI XUÂN, để gặp gỡ nhau , TÌM VỀ CỘI NGUỒN.

Nhân dịp nầy, tôi gởi đến Anh Chị Em Lời Chào Thân Ái ‘Nguyện xin Ân Sủng Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta và Tình Yêu Của Chúa Cha và Ơn Thông Hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả Anh Chị Em’ (2 Cor 13,13). Đồng thời tôi cũng mong ước được chia sẻ với Anh Chị Em về cội nguồn. Sống có cội nguồn là sống hiệp thông, là sống hy vọng.

Mỗi người chúng ta có hai mối liên hệ chính: Ai cũng mang một HỌ: người mang Họ Bùi, người mang Họ Cao, và còn nhiều Họ khác: Họ Dương, Họ Đặng, Họ Đinh, Họ Đổ, Họ Hồ, Họ Hồng, Họ Huỳnh (Họ Hoàng), Họ Lê, Họ Lưu, Họ Lương, Họ Khổng, Họ Mai, Họ Ngô, Họ Nguyễn, Họ Phạm, Họ Thái, Họ Trần, Họ Trương, Họ Võ (Họ Vũ). Họ từ tổ tiên truyền xuống qua đời nầy đến đời khác, biểu hiện mối liên hệ huyết nhục với Dòng tộc, gắn liền với bản thân chúng ta không thể chối bỏ được.

Người Công Giáo chúng ta còn nối kết với một Cộng Đoàn Tín Hữu cũng gọi là Họ: Họ Cái Mơn, Họ Cái Nhum, Họ Mặc Bắc, Họ Bãi Xan v.v... Những Họ nầy lại liên kết với nhau làm thành một Cộng Đoàn Lớn là Địa Phận. Địa Phận Vĩnh Long của chúng ta bao gồm hơn 198 Họ vừa lớn vừa nhỏ. Địa Phận Vĩnh Long đã được ghi trong Lịch sử Hội Thánh cách đây 70 năm , trong đó có những Họ đã được thành lập trên 300 năm như Cái Nhum. Đó là những nơi đã cưu mang, sản sinh và nuôi dưỡng chúng ta.

Thánh Kinh cho chúng ta thấy Chúa Giêsu có cội nguồn, có gia phả: Người vốn là Ngôi Lời Hằng Hữu, là Con Một của Chúa Cha (Gioan 1,1-18); còn xét theo bản tính nhân loại, bởi việc nhập thể, Người là Con của Đức Maria, được gọi là con của Ông Giuse, của David, của Abraham (Mt 1,1), của Adong (Luca 3,23-38).

Con Thiên Chúa đã tự nguyện làm con của Adong, để phàm nhân tội lỗi được trở thành con cái của Thiên Chúa. Người đến giao hòa tội nhân với Chúa Cha, và nhờ Chúa Thánh Thần đoàn tụ tất cả thành một Thân Thể trong Đức Kitô (Kinh nguyện Thánh Thể IV) , đó là Hội Thánh (Eph 1,23). Người mặc xác phàm liên đới với mọi người là để nâng cao phẩm giá con người .

Chúng ta hãnh diện được làm người Việt Nam, làm người Công Giáo trong một Họ Đạo của Địa Phận Vĩnh Long, được làm con cháu của các Anh Hùng Tử Đạo, của Thánh Philipphê Phan Văn Minh, Thánh Giuse Nguyễn Văn Lựu và nhiều chứng nhân anh dũng khác nữa.


Nhờ Gia đình mà mỗi người chúng ta được liên kết với Dòng Tộc, và cũng nhờ Gia đình chúng ta được hội nhập vào Họ Đạo, hội nhập vào Địa Phận. Niềm Vui của chúng ta trong dịp Tết Nguyên Đán là được sum họp với những người thân trong Gia Đình, với họ hàng ruột thịt; cùng nhau tham dự các sinh hoạt của Họ Đạo, thêm lòng cảm mến quê hương và thắt chặt liên hệ với Họ Đạo. Chúng ta có được Hạnh Phúc như thế là nhờ đâu? Phải Tạ Ơn Chúa và tỏ lòng thảo hiếu đối với Tổ Tiên. Và cũng không được quên biết bao nhiêu người đã và đang dày công xây dựng và phát triển Họ Đạo, trong đó có các Linh Mục, các Tu Sĩ.

Anh Chị Em hãy quyết tâm bảo vệ truyền thống tốt đẹp của Gia đình, của Họ Đạo. Hãy giữ tình đoàn kết, sống yêu thương và giúp đỡ nhau, theo gương Chúa Giêsu, hằng ngày trên Bàn Thờ, dâng mình làm của lễ tôn thờ Thiên Chúa vì chúng ta và còn trao ban chính mình làm lương thực nuôi sống chúng ta.

Mừng Xuân Mới, tôi xin phó dâng Anh Chị Em trong tay Mẹ Maria. Nhờ Mẹ mà Con Thiên Chúa gia nhập vào Gia Đình Nhân Loại, trở nên ‘trưởng tử của một đoàn em đông đúc’ (Rom 8,29), là chúng ta, là các tín hữu của Người. Xin Mẹ gìn giữ Anh Chị Em luôn sống trong Ân Sủng và Bình An của Chúa Kitô.

+ Tôma Nguyễn Văn Tân

Giám Mục Giáo Phận Vĩnh Long

Mục lục

 

 

XUÂN MẬU TÝ 2008

 

LỜI CHÚC ĐẦU NĂM

 

Trong các dịp mừng kỷ niệm : ngày sinh nhật, ngày cưới, ngày bổn mạng ;

Trong các dịp lễ hội, lễ tết, ta thường chúc nhau. Chúc cho nhau gặp nhiều điều thuận lợi trong cuộc sống : được may lành trong tình duyên, may mắn trong sự nghiệp, tiến tới trong đường học vấn… Nghĩa là ước mong điều tốt đẹp nhất đến cho nhau.

Cách thông thường, thường sử dụng trong đời sống hằng ngày : qua thư từ, điện thoại, khi gặp mặt, là chúc cho nhau luôn được khoẻ mạnh.

Những giây phút linh thiêng đầu năm, xin kính chúc mọi người được luôn khoẻ mạnh.

Khoẻ mạnh về thể chất, về nhân bản.

Dù tinh thần, ước muốn có mạnh mẽ đến đâu, không sức khoẻ, ta không làm được gì. Sức khoẻ là vàng bạc. Sức khoẻ, một trong những yếu tố căn bản và cần thiết để phát triển các nhân đức, các chiều kích khác trong cuộc sống.

Một thân thể cường tráng, một nhân cách vững chắc, một lương tâm đúng đắn sẽ giúp ta có được cuộc sống hài hoà, trật tự, nhạy bén, một phong cách ứng xử tế nhị, chân thành, đầy tình người.

Khoẻ mạnh về trí thức, trí khôn ngoan.

Một xã hội đầy hấp dẫn, tinh vi và hợp lý của các trào lưu tục hoá, khuynh hướng tôn thờ con người, lấy con người làm tiêu chuẩn đang ăn sâu vào suy nghĩ và đang dần chiếm lĩnh toàn vẹn cuộc sống của ta. Những nhu cầu thấp hèn, trần tục thế chỗ cho những giá trị đạo đức, thánh thiêng. Thực tế thật tế nhị và phức tạp. Một bối cảnh như vậy, nếu không biết phân định tốt xấu, không có hay thiếu khả năng nhận định, phân tích, tổng hợp vấn đề, ta sẽ không thể có được một lựa chọn tốt nhất, chính xác nhất, khôn ngoan nhất.

Khoẻ mạnh về tình yêu, về lòng mến.

Cuộc sống sẽ rất buồn tẻ, nặng nề và máy móc nếu ngày ngày, tháng tháng, năm này qua năm khác chỉ thấy toàn những công việc, những trách nhiệm, những bổn phận, của cá nhân cũng như của tập thể.

Có tình yêu, cuộc sống sẽ trở nên nhẹ nhàng. Có lòng mến, cuộc sống sẽ tươi mát, êm ái, thánh thiêng. Thiếu tình yêu, con người coi như đã chết. Nhờ tình yêu, mọi vấn đề khó khăn được giải quyết cách dễ dàng. Tình yêu mời gọi ta nhìn về phía trước. Tình yêu lôi kéo ta ra khỏi cô đơn và tuyệt vọng. Tình yêu giúp ta nhìn những thất vọng, khổ đau không như một ngõ cụt, nhưng là khởi đầu cho một dịp may mới. Tình yêu là sợi giây liên lạc, kết nối giữa con người với con người, giữa con người với Thiên Chúa. Tình yêu là sức mạnh để củng cố lẫn nhau, dấn thân cho nhau, hy sinh vì nhau. Tình yêu giúp ta vui sống, tồn tại và phát triển.

Khoẻ mạnh về lòng bác ái.

Có thể ta có sức khoẻ, có nhiều khả năng, có lịch sự văn minh, ứng xử với nhau một cách tế nhị, khéo léo, khôn ngoan ; có thể ta có một tấm lòng chân thành, nhiệt thành, thế nhưng, những thứ ấy chẳng giá trị gì nếu không thể hiện bằng những hành động cụ thể. Bằng một tấm lòng yêu mến.

Hoa trái của nhân đức là bác ái. Bác ái bằng sự thinh lặng. Thinh lặng vì hạnh phúc, sự ấm êm của gia đình, của xóm làng. Bác ái bằng việc lên tiếng khi cần, đúng nơi, đúng lúc, phù hợp với tâm lý và hoàn cảnh cụ thể, nhất là phải lên tiếng để bảo vệ gia đình khỏi những vấn đề có thể làm mất bình an, ảnh hưởng đến tương lai của gia đình. Bác ái bằng việc quan tâm phục vụ lẫn nhau, không phân biệt việc trí thức hay việc chân tay ; việc trong nhà hay việc đồng áng, nơi công sở.

Một con người tự nhiên thôi, cũng cần phải trau dồi, phải thăng tiến cuộc sống. Người con của Chúa, người môn đệ của Chúa, càng cần thiết và nghiêm chỉnh canh tân, thăng tiến cuộc sống mỗi ngày. Khuôn mẫu đích thực để ta noi theo, không ai khác, chính là Đức Kitô.

Ta học theo cách ứng xử, mang lấy nhân cách toả sáng của Đức Kitô.

Ta học và chiếm lấy sự hiểu biết, khôn ngoan tuyệt vời của Đức Kitô.

Ta học và mặc lấy tâm tình, thái độ từ tâm, bác ái của của Đức Kitô.

Để rồi ta không con là ta, mà ta là chúa, chúa trong Chúa. Ta và Ngài là một : một trong suy nghĩ, một trong hành động, một trong ước muốn. Ta ở trong Ngài, Ngài ở trong ta.

Nguồn lực, sức mạnh tốt nhất để thăng tiến cuộc sống chính là Thánh Thể, là Lời - Lời Hằng Sống.

Ta cùng Ngài ra khơi thả lưới tình thương. Ra khỏi chính mình để đến với người khác : người thân trong gia đình, trong xóm làng, nhất những người chưa biết đến Đức Kitô, hãy cho họ biết, bằng đời sống gương mẫu của ta.

Thiên Chúa là Tình yêu. Đức Kitô diễn tả, chứng minh tình yêu. Có Đức Kitô là có tình yêu, có tất cả. Có Đức Kitô, ta không còn phải bận tâm lo lắng xem hôm nay ăn gì, ngày mai uống gì, ngày mốt mặc gì. Cha trên trời biết rõ những nhu cầu ấy. Cha thấy con cái Ngài cần thiết và ưu tiên là tìm kiếm nước Cha. Amen.

Thanh Thanh

Mục lục

 

 

TẾT NGUYÊN ĐÁN TẠI THỦ ĐÔ THĂNG LONG GIỮA THẾ KỶ 17

 

 Tết Nguyên đán là những ngày vui vẻ nhất trong năm của người Việt Nam. Joseph Tissanier, người Pháp, sống ở Thăng Long từ 1658-1663 đã dự năm cái Tết ở đây, tả rõ rằng, vào dịp này người Việt sửa soạn mọi cái cho long trọng, từ nhà cửa đến đề ăn, áo mặc. Túng cực đến đâu cũng phải kiếm cho đủ tiền bạc tiêu dùng ba ngày Tết. Có những kẻ nghèo khổ, phải đi ăn cắp vặt hoặc dùng võ lực cướp của người khác, hầu được sống dung dung trong những ngày đầu Xuân(1). Vì vậy trong những đêm gần Tết, nhiều nhà phải thức đêm canh trộm.

 

Cuối năm, các chợ Tết hết sức nhộn nhịp, vì mọi người giàu sang, nghèo hèn đều đi mua sắm. Quan cũng như dân đều lo may quần áo mới, dọn dẹp nhà cửa cho khang trang, sửa sang võng cáng, tàn lọng, đắp lại mồ mả, cột nhà tường vách treo đầy câu đối, tranh vẽ, vua chúa cũng cho quét dọn lăng tẩm…(2)

 

Theo Bento Thiện viết năm 1659: “đến gần ngài bết bua chúa ban lịch cho thiên hạ xem ngài”(3), trong đó những ngày nghỉ Tết được ấn định rõ ràng. Thường bắt đầu nghỉ từ ngày 25, 26 tháng chạp, và có thể kéo dài tới ngày 10 hay 15 tháng giêng. Những ngày đó, nếu có chiến tranh, cũng tạm ngưng để ăn Tết. Từ ngày 25 tháng chạp, ấn dấu của vua chúa, quan quyền đều được lau chùi sạch sẽ, cất vào hộp, không dùng tới; khí giới quân đội cũng lau lọt sáng nhoáng để một nơi.

 

Chúng ta thử coi, năm 1659 thầy giảng Bento Thiện đã viết về Tết Nguyên đán thế nào: “Thói nước Annam, đầu năm mùng một tháng giêng gọi là ngày Tết. Thiên hạ đi lạy vua, đoạn lạy chúa, mới lạy ông bà ông vãi, cha mẹ cùng kẻ cả bề trên. Quan quyền thì lạy vua chúa, thứ dân thì lạy Bụt trước. Ăn tết ba ngày, mà một ngày trước mà xem ngày mùng hai, mùng ba, ngày nào tốt, thì vua chúa đi đền giao, gọi là nhà thờ. Trời, hiệu Thiên Thượng Đế Hoàng địa kì. Vua chúa đi lạy mà xin cho thiên hạ được mùa cùng dân an. Đến mùng bảy mùng tám mới hết, cùng làm cỗ cho thiên hạ ăn mừơi ngày. Lại xem ngày nào tốt, mới mở ấy ra cho thiên hạ đi chầu cùng làm việc quan, cùng hỏi kiện mọi việc; lại làm như trước mới khai quốc, thiên hạ vào chầu vua. Từ ấy mới có phiên đi chầu. Nội đài, ngoại hiến, phủ huyện, quan đăng nha môn, mới có kiện cáo”. Chính Bento Thiện lại viết chữ quốc ngữ đoạn trên như sau: “Thóy nước Annam, đầu Năm mùỏ một tháng giang gọi là ngài tết. Thien hạ đi lại bua, đoạn lại chúa mớy lại oủ bà oủ bải cha mẹ củ kẻ cả bề tiên, quan quièn thì lại bua chúa, thứ dân thì lại bụt tlưác, ăn tết ba ngài mà  một ngài tlưác mà xem ngài mùỏ hay mùỏ ba, ngài nào tốt, thì bua chúa đi đền giao, gọi là nhà thờ blờy hiẹu thien thưạng đế hoàng địa kì. Bua chúa thì lạy mà xin cho thien hạ được mùa củ dân an, đến mùỏ bải mùỏ tám mớy hết củ làm cỗ cho thien hạ ăn mươỳ ngài, lại xem ngài nào tốt, mơý mở ấn ra cho thien hạ đi chầu củ làm vịec quan, củ hỏi kịen mọy vịec, lại làm như tlưác mớy khai cuác, thien hạ bào chầu bua,từ ấy mớy có phien đi chầu, nộy đài ngoặy hién phủ huịen quan đảng (đăng?) nha môn, mớy có kịen cáo”(4)

 

Mấy ngày cuối năm, một số người già cả không dám ở nhà mình, nhưng phải đi trú trong đền chùa, được coi là chốn nương thân an toàn nhất. Vì họ tin rằng, dịp này có một thứ “quỷ” tên là Thưang (Thương) hay Voutuan (Vũ tuần)(5) chuyên đi bóp cổ sát hại những người già nua, nam cũng như nữ. Do đó nhiều người giả phải lẩn tránh trong đền, chùa cả ngày đêm không dám bước ra ngoài. Mãi đến lúc giao thừa họ mới dám về nhà, vì nghĩ “quỷ” ác ấy đã đi khỏi. Bởi đấy dân chúng gọi ba ngày cuối năm là ba ngày chết. Cuối năm nhiều người còn dùng vôi vẽ trước cổng ngõ, những hình vuông, tròn, hay tam giác, nhất là hình con mèo, trong số các hình, thì hình tam giác và con mèo làm cho ma quỷ sợ nhất.(6)

 

Tối ba mươi Tết mọi nhà đều dựng cây Nêu trước cửa. Đó là một “cột” thường làm bằng tre, cao hơn nóc nhà một chút (nên biết, ở thủ đô Thăng Long thế kỷ XVII, chỉ có nhà trệt, kể cả đền đài vua chúa). Gần ngọn cây Nêu người ta cột một cái giỏ hay chiếc hộp thông nhiều lỗ, bên trong đựng vàng mã. Vì theo Alexandre de Rhodes, dân chúng tin rằng, dẫu ông bà cha mẹ đã chết, nhưng các ngài cũng cần tiêu xài, và nhất là để trả những món nợ chưa xong khi còn sống. Theo phong tục Việt Nam thời đó, cứ cuối năm mãn chạp, liệu sao tính sổ sách cho xong: ai còn nợ, cố gắng trả cho sạch; nếu có tiền cho vay cũng phải đòi lại hết. Không ai muốn để giây dưa sang năm mới. Mọi thứ nợ cũ phải thanh toán hoàn toàn, trừ trường hợp bất khả kháng. Bởi lẽ, còn nợ sợ rằng, nếu đến ngày ba mươi Tết mà chưa trả, lỡ ra chính ngày mồng Một chủ nợ đến nhà đòi, thì thật là xui xeo suốt cả năm.(7)

 

Theo tài liệu viết tay bằng chữ Quốc ngữ của Thầy giảng Bentô Thiện năm 16559, mà chúng tôi đã nhắc đến ở trên, thì dân chúng lại dựng cây Nêu vào sáng ngày mồng Một; điểm này có lẽ ông Thiện ghi không đúng. Còn về ý nghĩa cây Nêu, ông Thiện lại trình bày khác. Theo ông, thì tục truyền rằng Đức Phật và quỷ tranh giành đất nhau. Đức Phật nói cho quỷ hay, hễ ngài trải áo cà sa tới đâu thì đất đó thuộc về ngài, còn lại là phần quỷ. Vậy Đức Phật trải áo ngài ra khắp mặt đất, làm cho quỷ không có đất ở, đành phải xuống biển. Nhưng cứ hết năm cũ, ma quỷ lại tranh đất với Đức Phật. Bởi đấy, mọi người phải dựng cây Nêu từ sáng sớm ngày mồng Một, để quỷ biết rằng đó là đất của Đức Phật đã trải áo cà sa tới; còn ai không dựng cây Nêu là đất của quỷ. (8)

 

Đến nửa đêm giao thừa, trong vương phủ (phủ chúa Trịnh) ba súng đại bác nổ vang báo hiệu bước sang năm mới. Theo Marini, người Ý, sống ở Đàng Ngoài từ 1647-1658, thì chính lúc giao thừa mọi người đều hội họp trong nhà và bó buộc phải mở cửa hầu đón tiếp tổ tiên về ăn Tết với con cháu. Giường chiếu cũng đã dọn sạch sẽ, để tổ tiên nghỉ ngơi sau nhiều ngày đàng mệt nhọc mới về tới nhà con cháu. Ngoài ra cũng đặt ngoài hiên nhà một chậu nước sạch, một đôi giép hay guốc, và có khi hai cây mía nữa. Làm thế để hồn tổ tiên trước khi vào nhà cũng rửa chân, đi guốc cho sạch, trước khi lên giường; còn hai cây mía được coi như hai chiếc gậy giúp tổ tiên chống bước vào nhà. Mọi người sau giờ giao thừa, đều tưởng tượng là tổ tiên đã vào nhà cách vô hình (9). Lúc đó gia trưởng nói mấy lời chúc mừng tổ tiên. Trên bàn thờ tổ, khói hương nghi ngút. Gia trưởng cùng mọi người trong nhà làm lễ cùng vái, tạ ơn tổ tiên, mời tổ tiên cùng chung vui với họ, và xin phù hộ cho con cháu năm mới được bằng an, khỏe mạnh, làm ăn phát đạt. Liền đó trong gia đình mừng tuổi nhau: con cái lạy cha mẹ, tôi tớ lạy chủ nhà, rồi cha mẹ ban quà mừng tuổi cho con cháu, tôi tớ.

 

Trong ba ngày tết, nhất là ngà mùng Một, người ta đi chúc tuổi nhau; vào nhà nào cũng được mời ăn, nếu từ chối là bất lịch sự. Ngày mồng Một Tết, khi vừa ra đường mà trước tiên lại gặp phải người đàn bà, thì họ liền về nhà, chờ hai, ba giờ sau mới dám ra đường; trái lại họ sẽ gặp xui. Nhưng nếu bước chân ra đường, trước tiên lại gặp được một người đàn ông, thì thật hên.(10)

 

Đi Tết ai, thường cũng tết thêm mấy bánh pháo to nhỏ tuỳ theo cấp bậc, địa vị; vừa xướng Tết xong, người ta liền đốt pháo cho ran nhà, cho tà ma bỏ chạy, để hạnh phúc tràn tới. Người dưới phải đem đồ, hoặc cho người đại diện đi tết người trên. Con cháu phải tết ông bà, cha mẹ, chú bác; trò phải tết thầy…

 

Các quan cấp dưới cũng phải gửi đồ tết quan trên. Vì vậy nhà các đại quan tràn ngập đồ tết. Thường thường các vị đó lại đem tặng bạn bè, hoặc cho quân lính, kẻ hầu hạ, để mọi người được hưởng lộc. Tất cả các quan lại không buộc dâng đồ Tết vua chúa.

 

Đồ tết của người dưới đối với người trên hầu hết là thực phẩm: gạo, heo, gà, vịt, cau, đường, trái cây, bánh, mứt… Nếu là quân lính, sẽ họp nhau cùng tết viên quan chỉ huy trực tiếp. Họ mang đồ Tết đến nhà quan bằng một nghi thức trang trọng: đi đầu là cai đội (chỉ huy từ 2 đến 6 thuyền, mỗi thuyền từ 30 đến 60 lính) rồi đến lính bưng một quả (hộp) gạo), và khênh con heo mới giết đặt trên bàn, để trước mặt quan. Viên quan ngồi giữa nhà thật oai nghiêm. Quân lính lạy quan sát đất ba lần. Quan nhận đồ Tết, rồi bảo người hầu đem cất đi; sau đó ban quà mừng tuổi cho lính tương xứng với đồ Tết. Còn quà mừng tuổi của vua chúa cho các quan là một bộ phẩm phục, đặt trong quả (hộp) áo sơn son vẽ rồng, cùng một mẫu. Vua chúa sai người bưng quả áo đến nhà viên quan, đi theo có lính che lọng quà mừng tuổi. Việc che lọng trên không có ý tránh mưa nắng, nhưng chỉ là tỏ sự cung kính món quà vua chúa ban.

 

Ba ngày cuối năm, bốn mươi đại quan thuộc triều đình và vương phủ, đi nhận lời tuyên thệ trung tín của các quan văn võ, và có khi cả gia đình họ nữa. Đó là lời thề trung thành với vua chúa; nếu nhận thấy điều gì có thể nguy hại cho vua chúa hoặc cho quốc gia, họ phải đi tố cáo. Đấy là lễ tuyên thệ tại thủ đô Thăng Long. Còn tại các Xứ, thì quan Trấn thủ, Đốc trấn và Lưu thủ (11) đại diện cho vua chúa, nhận lời thề các quan trực thuộc. Trong dịp này bất kể ai tố cáo ra một cuộc mưu phản, thế nào cũng được thưởng. Phần thưởng không những tuỳ theo tính cách quan trọng vụ âm mưu, mà còn theo chức tước người tố cáo. Nếu kẻ tố cáo là một viên quan, thì họ chỉ được hưởng tuỳ theo ý muốn vua chúa, vì nhiệm vụ của họ là phải giữ trật tự an ninh quốc gia; nếu là người dân thì được thuởng cho một phẩm hàm hoặc được thăng quan chức; hơn nữa khi tố cáo được vụ phản loạn lớn, chúa Trịnh còn ban thêm cho họ tới 500 lượng vàng hoặc 5.000 lượng bạc. Tuy nhiên dân chúng không chuộc tiền thưởng bằng được thăng quan. (12)

 

Ngày ba mươi Tết, Tây định vương Trịnh Tạc cùng quan quân theo hầu, ra khỏi vương phủ để đi tắm ở sông hoặc tại một chiếc nhà gần đó, hầu thanh tẩy cuộc sống dĩ vãng, đón nhận đời sống mới trong năm tới.(13)

 

Sáng ngày mồng một Tết, cũng như ngày một và rằm mỗi tháng chúa Trịnh cùng các quan đến chầu vua Lê; dĩ nhiên ngày mồng Một Tết buổi chầu được tổ chức long trọng hơn cả (14). Nhưng khi Trịnh Tạc thế vị cha lên cầm quyền (1657), ông lấn đoạt quyền hành vua Lê nhiều hơn, ông cũng không đi chầu vua vào các ngày mồng một và rằm mỗi tháng. Hơn nữa, dường như từ năm 1658 trở đi, Trịnh Tạc cũng không đích thân đi tết vua, mà chỉ đón vua đi tế Nam giao. Tuy nhiên, ông cử một quan đại diện đến tết vua và chầu vua mỗi tháng hai lần.

 

Sau khi tết vua, các quan trở lại tết chúa. Theo Tissanier và Tavernier thì khung cảnh tết chúa long trọng hơn tết vua nhiều. Khi các quan đi chầu hoặc tết vua chúa, phải mặc áo tím, đội mũ lục lăng và phải lạy sát đất 4 lần (15). Riêng nữ giới chỉ buộc lạy một lần theo kiểu lạy của họ (ngồi mà lạy). Dịp này cũng như các dịp khác ai muốn dộng (16) xin ân huệ gì, thì đội của lễ lên đầu, hoặc bưng cao ngang trán, tiến gần tới chúa để nói. Nếu chúa nhận lời, ngài sẽ bảo người hầu cất của lễ đi; bằng không, thì chúa cũng không nhận của lễ.

 

Đúng mồng ba Tết chúa Trịnh mới tiếp người ngoại quốc đến dâng tuổi. Dịp tết Canh Tý, Vĩnh thọ năm thứ 3 (1660), phái đoàn Trung Hoa chúc tuổi chúa Trịnh Tạc trước hết theo nghi lễ Trung Hoa, rồi lại lạy chúa theo nghi lễ Việt Nam, phái đoàn Hòa Lan chỉ chào chúc chúa theo nghi thức Hòa Lan…. Còn hai linh mục dòng Tên Onuphre Borgès (Thuỵ Sĩ) và Joseph Tissanier (Pháp) lại lạy hoàn toàn theo kiểu Việt Nam. Tissanier thuật rằng, ngày đó trước vương phủ đông nghẹt người không dễ gì chen chân được. Cũng may hai ông vào được tới một sân lớn để lạy chúa. Các ông cũng mặc áo thụng tím, đội mũ lục lăng, lạy chúa Trịnh Tạc bốn lạy sát đất trước mặt 4.000 người. Khi Tây định vương Trịnh Tạc thấy hai linh mục, ông làm hiệu cho hai vị lạy vương thái hậu (mẹ chúa) đang ngồi cạnh ông. Tức thì Borgès và Tissanier cũng lạy vương thái hậu bốn lần.(17)

 

Chính ba ngày Tết, nhiều người đều kiêng giữ không quét nhà, có nơi kiêng cả nấu ăn(18). Tết là dịp nghỉ ngơi, xem ca hát tuồng kịch, đánh bài bạc; cũng vì thế mà nhiều người sạt nghiệp vì Tết.

 

Nhìn lại một số khía cạnh lịch sử tết nguyên đán thế kỷ XVII, chúng ta thấy ngay được những gì đã biến mất, những gì còn lại ngày nay. Thật ra, tinh thần Tết nguyên đán xưa và nay cũng không khác nhau, nó là dịp long trọng nhất để cấp dưới tỏ lòng biết ơn đặc biệt đối với cấp trên: vua đại diện toàn dân “đi đền giao, gọi là nhà thờ Trời, hiệu Thiên Thượng Đế Hoàng địa kỳ”, các quan lại tết vua chúa, con cháu tết cha mẹ ông bà, gia đình xum họp lúc giao thừa đón tổ tiên, trò tết thầy v.v… Mối liên hệ chiều ngang trong dịp này bị xẹp xuống, để làm nổi mối liên hệ chiều dọc trong xã hội gia đình, quốc gia, và cả cái “xã hội” nhân thần, hay nói rộng hơn là sự giao hòa giữa người với Trời Đất, tức tam tài Thiên Địa Nhân.

 

Về hình thức, Tết vẫn là những ngày lễ nghỉ lâu dài, long trọng và vui vẻ nhất trong năm; vì thời đó, ngoài dịp đầu Xuân, thường thường chỉ có lệ nghỉ ngày một và rằm mỗi tháng chứ không nghỉ ngày Chúa nhật như hiện nay. Chúng tôi xin tạm ngừng ở đây mà không muốn đi sâu vào vấn đề ý nghĩa các phong tục rườm rà Tết nguyên đán, hoặc những nguyên nhân xã hội đã thay đổi nhiều hình thức và cơ cấu Tết nguyên đán ngày nay so với giữa thế kỷ XVII.

 

 

Chú thích

(1)  “Ceux qui ne trouvent dans leur maison, ni argent, ni habits, en vont chercher ailleurs par des larcins cachez, ou par la force de leurs armes” (J.Tissanier, Relation du voyage… depuis la France jusqu’au Royaume de Tunquin, Paris 1663, tr.265-266).

(2) J.P de Marini, Relation nouvelle et eurieuse des Royaumes de Tunquin et de Lao, Paris 1666, tr.245-246.

(3) Archivum Romanum S.I, JS, 81 .f.257v

(4) Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ quốc ngữ  1620-1659, Sài gòn 1972, tr.119-120, 145 - Archivum Romanum S.I, JS, 81 .f.257r

(5) Alexandre de Rhodes, Relazione del Tunchino, Roma 1650, tr.108-109.

(6) J.B.Tavernier, Suite des voyages de Mr.Tavenier, chevalier, baron d’Aubonne, IV Paris 1680, tr.94.

(7) Alexandre de Rhodes, Relazione del Tunchino, Roma 1650, tr.109-110.

(8) Đỗ Quang Chính, sđd, tr.121, 146.

(9) Marini, Relation nouvelle, sđd, tr.251-252.

(10) J.B.Tavernier, Suite des voyages de Mr.Tavenier, chevalier, baron d’Aubonne, IV Paris 1680, tr.95

(11) Cai trị Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, An Quảng do quan Trấn thủ; cai trị Thái Nguyên, Lạng Sơn, Nghệ An do quan Đốc trấn; cai trị Thanh Hóa, Tuyên Quang, Hưng Hóa do quan Lưu thủ.

(12) J.B.Tavernier, sđd, tr.65.

(13) “… đến ngài ba mươy thì đức chúa đi giội gọy là bỏ mọy sự cũ đi mà chịu mọy sự mớy” (coi Đỗ Quang Chính, sđd, tr.121, 146) – “Le dernier jour de l’an, le Roy (chúa Trịnh Tạc) sort de son Palais auecque son armée, pour s’aller lauer à la riuiere, ou dans quelque maison voisine” (J.Tissanier sđd, tr.266).

(14) A.F.Cardim, Relation… Paris, 1646 tr.59.

(15) J.Tissanier, sđd, tr.260 – J.B.Tavernier, sđd, tr.64.

(16) Dộng là tiếng để nói với chúa Trịnh; cũng như khi nói với vua thì dùng tiếng tâu (tâu vua, dộng chúa); nói với đại quan dùng tiếng bẩm; với quan nhỏ, tiếng trình; với vai trên, thưa. Như vậy trong thuật ngữ xưng hô đẳng cấp xã hội, tiếng dộng ở cấp thứ hai.

(17) J.Tissanier, sđd, tr.270-272.

(18) Marini, Relation nouvelle, sđd, tr.253

 

Lm. Đỗ Quang Chính

Dòng Tên Việt Nam

http://dongten.net/

Mục lục

 

Mồi cứng khô. Nhưng kiên nhẫn cắn gặm thế nào cũng thành công!

Đây là hình ảnh chú Chuột đào bới tìm mồi ăn. Chú tuy nhỏ con, nhưng lại có đôi chân chạy nhảy trèo leo bơi lội rất nhanh lẹ, đôi con mắt tinh sáng nhìn láo liên.

Chú dùng tay chân đào bới đất, cái đuôi dài là cột thu lôi bắt sóng và giữ thăng bằng cho thân thể. Đôi tai vểnh lên cao để thu bắt âm thanh cực nhỏ vọng đến. Lỗ mũi ngửi đánh hơi rất bén nhậy , và miệng có răng nhọn sắc cắn gặm nhai mồi điệu nghệ.

Thiên nhiên đã sinh ra chú như vậy. Theo Kinh Thánh thuật lại vào ngày sáng tạo thứ năm Thiên Chúa phán: „Đất phải sinh ra các sinh vật tùy theo loại: gia súc, loài bò sát và dã thú tùy theo loại.“ Liền có như vậy. Thiên Chúa làm ra dã thú tùy theo loại, gia súc tùy theo lại và loài bò sát dưới đất tùy theo loại.“ ( St 1, 25).

Chú không có tên là Chuột trong sách Kinh Thánh. Nhưng chú được Thiên Chúa tạo dựng là loài thú vật sống trên và dưới mặt đất.

Tên Chuột của chú có từ khi nào, không thấy sách vở nào ghi nói đến. Chỉ biết Chú có mặt là một loài thú vật sống sát cạnh con người. Chú sinh sôi nẩy nở rất nhanh , rất nhiều và có nhiều loại giống khác nhau. Chú có nhiều khuôn mặt tích cực cũng như tiêu cực.

Theo truyền thuyết bên Ai cập một loài Chuột có đầu nhọn được tôn như con vật thánh.

Cũng theo truyền thuyết người Rôma ngày xưa nhìn chú chuột bạch như dấu chỉ của may mắn hạnh phúc.

Người Nhật Bản cho Chuột là người đồng hành của thần thánh về sự giầu sang.

Người Trung Hoa lại nhìn Chuột với cái nhìn trái ngược: Nhà nào, chỗ nào có Chuột đến làm ổ, nơi đó mất trật tự, mất bình an.

Trong đời sống thực tế, Chuột đến làm ổ nơi nào, gây ra cảnh phá hoại nhà cửa, mùa màng cây cối hoa trái thóc lúa, cắn phá đồ đạc. Ngoài ra chuột còn mang gây bệnh tật truyền nhiễm đến, chúng sống chui rúc nơi ẩm thấp tối tăm, ăn ở dơ bẩn rất hỗn tạp hầu như không trừ một thứ gì.

Theo thần thoại bên Ấn Độ, Chuột là loại thú vật di chuyển hiện thân của Thần Ganesha có hình thù như đầu con voi.

Trái lại ở Âu châu, Chuột theo niềm tin dân gian là hình ảnh của bệnh truyền nhiễm, của Phù thủy, của ma qủi, của thần đất trong nhà.

Người ta quan sát và truyền tụng lại cho nhau: khi những chú Chuột chạy bỏ khỏi một con ngôi nhà, một con tầu nào, đó là lúc căn nhà, con tầu đó găp tai nạn không còn lương thực nữa, bị cháy, hoặc đang bị chìm sâu xuống lòng nước.

Theo cách tính phân chia niên lịch bên Á Đông , chú Chuột đứng đầu trong vòng tròn một giáp 12 con thú vật : Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi- mỗi con vật đứng tên tượng trưng cho mỗi năm âm lịch. Năm mới âm lịch năm nay có tên biểu hiệu của chú Chuột: Mậu Tý.

Năm Mới âm lịch ngày Mùng Một tháng Giêng cũng là ngày bắt đầu mùa Xuân năm mới. Chú Chuột với những đặc tính xem ra tiêu cực nhiều hơn tích cực là hình ảnh không tốt đẹp gì cho một năm mới.

Nhưng dẫu thế, Chuột cũng có một hình ảnh tốt trong đời sống: chăm chỉ gặm nhai ít một thế nào cũng đục phá được vỏ cứng bao bọc hạt đậu phộng béo ngon bên trong.

Hình ảnh này giúp suy nghĩ rất nhiều về cung cách sống làm người trong việc học hành giáo dục đào tạo, việc tập đức tính tốt, việc sống đức tin vào Thiên Chúa.

Việc học hành, điều đạo đức tốt đẹp, ích lợi lành mạnh thường phải gắng sức tập luyện từng ngày, từng lúc mới tìm, mới đạt tới thành công được.

Chúc mừng Năm Mới Mậu Tý
Lm. Nguyễn ngọc Long

Mục lục

 

CHUỘT TRONG THÀNH NGỮ VÀ TỤC NGỮ VIỆT NAM

 

 

Loài vật rất phổ biến, đông đảo, vừa tinh ranh, láu lỉnh, vui nhộn, vừa ngộ nghĩnh, độc đáo và giàu ý nghĩa biểu tượng, chuột được lấy làm hình ảnh ẩn dụ sinh động cho nhiều câu thành ngữ, tục ngữ của người Việt Nam…

 

- Bày đường chuột chạy: chỉ cách cho kẻ xấu tránh bị trừng phạt.

 

- Cháy nhà ra mặt chuột (cháy nhà mặt chuột mới trơ):Do xảy ra biến cố mà mới phơi bày, lộ tẩy sự thật hoặc thấy rõ chân tướng của người liên quan.

 

- Chuột cắn dây buộc mèo: Làm ơn, cứu giúp cho kẻ thường săn đuổi, làm hại.

 

- Chuột chạy cùng sào : Lâm vào tình thế đặc biệt khó khăn, đã đến bước đường cùng, khó lòng xoay xở, tìm ra lối thoát được.

 

- Chuột chạy hở đuôi: 1.Thuộc ruộng xấu, lúa không phát triển được, thân cây mọc thấp và sơ xác, ví như chuột mà lẩn nhanh trong ruộng đó vẫn bị hở lộ đuôi; 2.Không che giấu được toàn bộ hành vi, sự việc, bị lộ một phần bí mật.

 

- Chuột chê xó bếp chẳng ăn /Chó chê nhà dột ra nằm bụi tre: Chế giễu kẻ làm bộ, đỏng đảnh, khó tính.

 

- Chuột chù chê khỉ răng hôi / Khỉ lại chả lời cả họ mày thơm: Câu nói dí dỏm chê cười những kẻ chẳng hay ho lại đi giễu cợt người khác.

 

- Chuột chù đeo đạc: Kẻ xấu xa lại tỏ ra là tốt, lên mặt dạy đời(đạc: loại chuông, mõ đeo ở cổ các con vât).

 

- Chuột chù lại có xạ hương:1.Giễu kẻ yếu kém, không có tài mà lại kiêu căng, làm bộ, khoe mẽ ;2. Chuyện ngược đời.

 

- Chuột chù nếm dấm: Kẻ không biết gì lại tỏ ra thành thạo (về vấn đề lĩnh vực nào đó ).

 

- Chuột đội vỏ trứng: Che giấu bản chất xấu xa bằng cái mã tốt đẹp, hào nhoáng bên ngoài.

 

- Chuột gặm chân mèo: 1.Liều lĩnh, dại dột làm việc nguy hiểm; 2. Lâm vào hoàn cảnh trớ trêu, phải thực hiện hành vi táo bạo, bất lợi.

 

- Chuột sa chĩnh gạo: (Chuột sa lọ mỡ):May mắn, gặp được nơi sung sướng, đầy đủ một cách tình cờ ngẫu nhiên.

 

- Chuột xa cũi mèo: Rủi ro, rời vào đặc biệt nguy hiểm, đe dọa trực tiếp tới tính mạng mình.

 

- Đầu dơi mặt chuột : 1. Có bề ngoài xấu xí, hình thú quái dị; 2. Chỉ kẻ lưu manh, đểu cáng, hung hãn.

 

- Đầu voi đuôi chuột: Chủ trương, kế hoạch,việc làm lúc đầu có vẻ to tát, thuận lợi, nhưng cuối cùng bỏ dở dang hoặc không đạt được kết quả tương xứng.

 

- Giết một con mèo, cứu vạn con chuột: tiêu trừ một kẻ thù nguy hiểm là cứu giúp được nhiều thành phần đối nghịch đối với nó.

 

- Khói như hun chuột: Khói đặc, nghi ngút, cay xè, lan rộng và nhanh.

 

- Làm dơi làm chuột: Làm việc mờ ám, không rõ ràng không chính đáng.

 

- Len lét như chuột ngày: Nhút nhát, sợ sệt, đi nhẹ với vẻ dè chùng sợ người khác trông thấy.

 

 - Lù rù như chuột chù phải khói: Kém tinh nhanh, rất chậm chạp và đờ đẫn.

 

 - Mắt dơi mày chuột: Có tướng mạo thể hiện tâm địa gian xạo, xấu xa.

 

- Mặt như mặt chuột (Mặt như chuột kẹp): Chế giễu người có mặt choắt với mặt lồi, má hõm.

 

- Mèo con bắt chuột cống: 1. Người có tuổi nhát gan như trẻ con; 2. Người có ưu thế lại bất lực; thất bại trước sự mãnh mẽ của kẻ bình thường.

 

- Mèo hay khen mèo dài đuôi /Chuột khen chuột nhỏ dễ chui dễ trèo: Tự khen, tự khoe những ưu điểm của mình, không ai chịu thua ai.

 

- Mèo mẹ bắt chuột con: Người có khả năng lớn mà lại chỉ làm những chuyện nhỏ hoặc chỉ thu được những kết quả nhỏ nhoi.

 

- Mèo nhỏ bắt chuột con: Làm việc vừa phải , phù hợp , tương xứng với khả năng, sức lực của mình  

 

- Ném chuột còn ghê cũi bát: Muốn xóa bỏ một điều gì nguy hại cũng phải dè chừng để tránh làm tổn thương đến những đối tượng liên quan tới điều nguy hại đó (cũi bát: đồ đựng bằng tre có bốn chân, dùng chưa bát đĩa).

 

- Ném chuột vỡ chum: Hành động không mang đến kết quả gì đáng kể, trong khi lại gây ra tổn thất lớn hơn nhiều.

 

- Nhà ổ chuột: Nhà chật hẹp, chui rúc, bẩn thỉu của dân nghèo.

 

- Nói dơi nói chuột: 1. Nói linh tinh, không có cơ sở, căn cứ gì hoặc không có nội dụng cụ thể ;2. Nói dối hoặc nói ỡm ờ, nói nước đôi.

- Nửa dơi, nửa chuột (Dở dơi dở chuột): Lai căng hoặc mập mờ, không rõ ràng.

 

- Sắc nanh chuột dễ cắn cổ mèo: Dù kẻ thù nguy hiểm thế nào nhưng nếu mình có mưu mẹo, có phương tiện thì mình cũng thắng được.

 

- Rình như mèo rình chuột: Rình rập một cách chăm chú và kiên nhẫn

 

- Thì thụt như chuột ngày:Đi lại, ra vào lén lút, biểu hiện những việc ám muội thiếu đứng đắn.

 

- Trốn như chuột:1.Sợ hãi, hốt hoảng bỏ chạy;2. Lẩn trốn vào những nơi ngóc ngách, khó tìm.

 

- Ướt như chuột lột: Ướt sũng, ướt hết từ đầu đến chân (lột: Dạng biến âm của từ lụt).

 

- Voi đú, chó đú, chuột chù cũng nhảy cẫng: Đua đòi, bắt chước không phải lối, trở nên lố bịt, kệch cỡm.

 

PHONG HÓA

Mục lục

 

 

NĂM TÝ NÓI CHUYỆN CHUỘT

 

Gần như một thông lệ của báo xuân, hễ năm con nào thì người ta nói chuyện về con ấy Theo lịch Tầu và lịch ta, mỗi năm mang tên một con vật. Năm nay là năm con chuột, tức năm Tý. Nói cho đầy đủ theo tiếng Hán Việt là năm Mậu Tý.  

Tại sao phải có chữ Mậu đi trước chữ Tý?

Chúng ta đã bị Trung Hoa đô hộ một ngàn năm, sau đó, trong thời tự chủ, giới trí thức Việt Nam cũng là đệ tử của Khổng Mạnh, vua quan cũng tổ chức guồng máy quốc gia theo kiểu Trung Hoa, nên văn hóa của nước láng giềng phương Bắc đã ảnh hưởng rất nặng vào nếp sống của người Việt Nam, dù chúng ta vẫn có nhiều điều khác và vẫn giữ được đặc tính của dân tộc Việt.

Trong cách tính toán sự vận hành của thời gian, chúng ta cũng dựa theo cách của người Trung Hoa. Tính theo trời thì có Thiên Can, tức là mười nhánh của Trời, gồm có: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Tân, Nhâm, Canh, Qúy. Tính theo đất thì có Thập Nhị Địa Chi, tức Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Mỗi chi dùng một con vật làm tượng trưng. Riêng năm Mão, người Việt Nam dùng con mèo, người Trung Hoa lại gọi đó là năm con thỏ. Để gọi tên mỗi năm, người ta phải lấy một Can ghép trước một Chi. Thí dụ: ĐINH Hợi, Mậu Tý. Dân thường thì coi lối ghép này khó hiểu, nặng tính mê tín. Mấy vị thâm Nho thì lại ca ngơi lối đặt tên có cả trời cả đất như vậy là biết hướng thượng, biết hòa mình cùng trời đất, biết sống theo thuyết Tam Tài: thiên, địa, nhân. Thiên sinh, địa dưỡng, nhân hòa. Người chính là đức của trời đất (Nhân giả kỳ thiên địa chi đức). Vì vậy, khi đặt tên năm thì phải dùng cả Can của trời lẫn Chi của đất để hài hòa với con người ở giữa.

Người ta thường tin là ai sinh năm nào thì chịu ảnh hưởng của con vật mang tên năm đó. Thí dụ ai sinh năm Sửu thì vất vả vì là tuổi trâu, ai sinh năm heo thì nhàn, ai sinh năm cọp thì dữ, ai sinh năm rồng thì số tốt vì là số vua v.v... Riêng năm con chuột, người ta tin đẻ con trai rất tốt vì thấy có nhiều người đàn ông làm lớn sinh trong năm Tý. Thí dụ cụ thể nhất là cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu sinh vào giờ Tý, ngày Tý, tháng Tý, năm Tý. Có điều thắc mắc là có nhiều trẻ trai khác cũng được sinh ra cùng ngày giờ năm tháng Tý, tại sao chỉ có mình Ông Thiệu làm tổng thống? Lúc đó mấy thầy lại tán rằng Tý nhưng phải là Tý nào, Mậu Tý hay Giáp Tý? Dù cùng can cùng chi nhưng khác nhau chỗ sinh, khác phong thủy, hay có người thân trong nhà khắc tuổi thì vận mệnh hẳn khác nhau. Ngay tuổi trâu, sinh ban ngày mới vất vả vì phải đi cầy, còn sinh ban đêm thì nhàn, vì chỉ việc nằm nhai rơm, cỏ. Cái gì các thầy cũng giải thích được, chẳng biết lối nào mà lần.

Các thầy còn tán rằng chuột cũng có hai thứ: chuột nhắt và chuột đồng. Chuột nhắt là loại chuột bé tí teo, sống trong nhà, nhất là trong xó bếp để dễ kiếm cơm thừa, canh cặn, lục niêu, lục nồi. Các thầy nói thứ chuột này đã thành người thân trong gia đình, rất trung thành, có đuổi cũng chỉ chạy, không chịu bỏ đi. Vì vậy chúng ta nên phát tâm từ bi hỷ xả mà nuôi chuột, nên dành chút lương thực cho chúng mỗi ngày, đừng nhẫn tâm đặt bẫy hay cho “những người thân” này sơi bả chuột. Ác nhân lắm! Hạnh Thánh Martin de Pores, người da đen, gốc châu Mỹ La Tinh, kể rằng thánh nhân là một thầy tu được giao nhiệm vụ coi bếp cho nhà dòng. Các chú chuột thấy thầy hiền lành, mỗi tối kéo tới cả sư đoàn để được thầy cho ăn, nhẩy múa và ca hát chít chít với chúng. Khi cha bề trên khám phá ra, ngài ra lệnh cho thầy Martin phải di tản lập tức đoàn chuột ra khỏi nhà dòng trong thời gian ngắn nhất. Thầy chờ đến nửa đêm, họp đại hội đồng chuột, báo cáo tình hình khẩn trương, ra lệnh di tản và khuyên anh em không được phá phách một tí gì trên đường rút lui khỏi nhà dòng. Thế là sau giờ Tý canh ba, thầy Martin đi trước dẫn đầu, sư đoàn chuột hàng ngũ chỉnh tề theo sau, vừa hát vừa nhẩy múa, vui vẻ kéo nhau ra cánh đồng, trước sự chứng kiến đầy kinh ngạc của cha bề trên và các tu sĩ khác.

Loại chuột thứ hai là chuột đồng, ăn lúa và sống ngoài trời nên to con. Các thầy tán rằng chuột đồng tượng trưng cho kẻ tung hoành dọc ngang, không chịu ru rú trong xó bếp, nhưng muốn sống tự do giữa nơi trời cao đất rộng. Đến mùa lúa, chuột đồng béo u béo nần. Hồi còn ở Việt Nam, có lần tôi đi máy bay từ Cần Thơ về Sài Gòn. Ngồi cạnh tôi, một bạn đồng nghiệp vác theo một bao bố có vẻ khá nặng. Tôi hỏi anh bao bố đựng gì. Anh cười trả lời: “Chuột lột. Muốn ăn, tôi tặng anh một chục con”. Tôi vội vàng từ chối. Tôi tuổi mèo nhưng rất ngán chuột, nói chi việc ăn thịt chuột. Ông bạn tôi cho biết chuột mùa này đang mập, nông dân bắt về lột da, mổ bụng, rửa sạch và bán cho khách nghiền thịt chuột từng bao bố. Ông tả cách làm chuột bẩy món, nào chuột khià nước dừa, chuột rô-ti, chuột xào lăn, chuột ướp xả nướng than ... đi với vài chai la de lạnh là hết xảy. Chuột sinh sôi nẩy nở rất nhanh, bắt không xuể. Vì vậy ông Trời mới sinh ra rắn để sơi bớt chuột cho mùa màng của nhà nông đỡ thất bát. Hiện nay ở Việt Nam, các “thượng đế” nhậu nhẹt khoái món đặc sản rắn. Người ta săn rắn ráo riết khiến chuột được thảnh thơi ăn lúa và sản xuất hậu duệ. Nông dân kêu Trời nhưng Trời ở cao không nghe.

Ngoài hai loại chuột nhắt và chuột đồng, không thấy các thầy Hán Nho nói gì đến hai thứ chuột khác là chuột chù và chuột cống. Người có lòng thương yêu thú vật cũng ngán hai thứ chuột này. Chuột chù thì hôi. Dân ta muốn chê ai ở dơ thì nói: “Hôi như chuột chù”. Chuột cống thì rất mất vệ sinh vì sống ở dưới cống và ăn đồ phế thải do cống tháo ra. Đây là thứ chuột thành phố, rất dễ truyền bệnh, đặc biệt là bệnh dịch hạch. Có lẽ chuột chù và chuột cống không có “đức tính” nào đáng ca tụng, nên các thầy đánh bài lờ.

Các thầy học rộng tài cao thì lờ. Nhưng người bình dân Việt Nam thì lại kể cho nhau nghe một truyện cổ tích nói về lai lịch của chuột cống. Truyện chuột cống đã được Nguyễn Đổng Chi ghi lại trong cuốn “Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam”, tóm tắt như sau: Ngày xưa, tại Nghệ An, có một chàng trai thi đỗ hương cống. Dân làng trịnh trọng gọi là ông Hương Cống. Vua trọng tài, gọi ông đi làm quan ở nơi xa. Vợ không thể đi theo vì phải ở lại lo quán xuyến việc nhà. Trong nhà có một con chuột đực già trên trăm tuổi đã thành tinh. Lợi dụng lúc ông Hương Cống vắng nhà, chuột yêu tinh biến hình thành Hương Cống giả, thỉnh thoảng đến ăn ngủ với vợ Hương Cống thật, nói dối là được phép về thăm nhà.

Sau nhiều lần du dương, hai người có một bé gái. Khi ông Hương Cống thật trở về nhà, vợ ông và làng xóm đều kinh ngạc vì thấy có hai ông Hương Cống giống nhau như đúc. Thật giả không cách chi phân biệt. Nội vụ phải trình lên quan trên xét xử. Sau khi lấy lời khai của các đương sự và nhân chứng, quan tòa ghi nhận  từ ngày ông Hương Cống đi làm quan xa, con chuột già của gia đình cũng biến mất. Từ sự kiện này, quan cho rằng trong hai ông Hương Cống, phải có một ông do chuột yêu tinh biến dạng mà thành.. Quan cho mời đến công đường một phù thủy cao tay. Thầy phù thủy vừa bắt quyết “linh miêu” vừa đọc thần chú “bổ thử”. Chỉ trong giây lát, ông Hương Cống giả và bé gái con của ông biến thành chuột và chết ngay tại sân tòa. Từ đó người ta gọi những con chuột bự và già là chuột cống. Bài học của truyện này là là kẻ thân tín trong nhà cũng có thể trở thành kẻ phản bội, kẻ được thi ân quay lại làm hại người gia ân. Nhưng mọi việc trên đời đều có nhân có qủa. Những kẻ ác và phản bội có thể thành công lúc đầu, nhưng chẳng chóng thì chầy, họ sẽ bị lột mặt nạ và sẽ bị trừng phạt xứng đáng. Người Việt Nam tin rằng “Trời có mắt”, và “Không có Trời ai ở với ai?”

Văn chương bình dân Việt Nam cũng có một bài nói về tình thân thiện giữa mèo và chuột:

Con mèo mà trèo cây cau

Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà

Chú chuột đi chợ đường xa

Mua mắm mua muối giỗ cha chú mèo

Ai cũng biết mèo và chuột là hai kẻ tử thù. Lúc nào mèo cũng rình để “sơi tái” chuột. Lúc nào chuột cũng chạy trốn nhưng luôn tìm cách “chọc quê” mèo. Người bình dân Việt Nam đặt bài ca dao này để nói dỡn chơi về một điều nghịch lý, hay muốn đưa ra một bài học nhân ái, xóa bỏ hận thù, sống chung hòa bình? Ông cha chúng ta nói năng mộc mạc, không triết lý cao vời, không mượn chữ thánh hiền để “loè” thiên hạ, nhưng tình ý nhiều khi rất sâu xa, không phải chỉ để hát chơi hoặc ru em, mà còn để suy gẫm và dậy con dậy cháu.

Có một con chuột khác nổi tiếng khắp thế giới từ trên nửa thế kỷ nay. Đó là chú chuột Mickey. Chú được nhà làm phim hoạt họa Walt Disney khai sinh. Chú biết nói, biết vui, biết buồn, biết yêu, biết làm đủ thứ trò... trên màn ảnh. Trẻ em yêu chú hết biết. Nhiều người lớn cũng khoái chú luôn. Chià khóa thành công của chú là yêu đời, yêu người, lúc nào cũng vui vẻ, nghịch ngợm nhưng không làm hại ai, có tinh thần phò nguy cứu khốn, trừ gian, diệt bạo. Chú là gương mẫu cho con người. Nếu ai cũng sống như chú thì bốn phương đã được hưởng thái bình từ lâu, không có tư bản bóc lột và không có vô sản chuyên chính.

.Ngọc Tâm

Mục lục

 

 

Nguồn gốc và ý nghĩa những từ Tết

Tết, Tết Nguyên đán, Tết Táo quân, đêm trừ tịch, giao thừa... những từ ngữ này đã trở nên thân thuộc ấy lại có nguồn gốc rất thú vị, độc đáo và mang nhiều ý nghĩa phức tạp. Niềm vui năm mới của chúng ta sẽ trọn vẹn hơn khi tìm hiểu và cảm nhận những từ ngữ Tết.

Tết

Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng, từ những câu chuyện hàng ngày đến lời cầu khẩn trước bàn thờ linh thiêng... Và mỗi dịp cuối năm cũ đầu năm mới, nó lại nở rộ, ngự trị trong sự xốn xang của mọi người.

Không biết chính xác nó xuất hiện trong tiếng Việt từ bao giờ, chỉ biết nó vốn là một từ gốc Hán. Theo ngôn ngữ Hán, tiết có nhiều nghĩa. Nghĩa gốc của tiết là "mấu tre" (vì thế khi viết chữ này, người ta phải viết với bộ trúc). Rồi nó dần chuyển nghĩa, chỉ sự tiếp nối giữ hai gióng cây, hai khúc cây, hai đoạn vật thể (tương đương với đầu mặt", "khớp", "khuỷu".. trong tiếng Việt).

Từ nghĩa này, nó tiếp tục mở rộng để chỉ thời điểm tiếp xúc giữa hai khoảng thời gian phân chia theo thiên văn - khí tượng trong năm, ví dụ một năm chia làm 24 tiết (lập xuân, vũ thuỷ, kinh trập, xuân phân, thanh minh, cốc lập, lập hạ, tiểu mãn, mang chủng, hạ chí, tiểu thử, đại thử, lập thu, xư thử, bạch lộ, thu phân, hàn lộ, sương giáng, lập đông, tiểu tuyết, đại tuyết, đông chí, tiểu hàn, đại hàn). Sau đó tiết chuyển thành nghĩa "ngày lễ, dịp cúng lễ vui mừng" - đây chính là nguồn gốc trực tiếp của tết mà ta đang đề cập.

Ngoài ra tiết còn có nghĩa là "bộ phận nhỏ của một chỉnh thể" (chi tiết, tình tiết...), "khoảng đoạn nhỏ" (chương tiết, tiết học, tiết mục...), "phẩm chất trong sạch, khảng khái", (tiết tháo, tiết hạnh, tiết khí, trinh tiết...).

Phần lớn tiếng Hán có phiên âm iê khi sang tiếng việt biến thành ê: thiêm biến thành thêm, thiết (yến) biến thành thết (tiệc), chiết biến thành chết... Tiết cũng vậy - biến thành tết. Ngoài nghĩa "ngày lễ, dịp cúng lễ, vui mừng" như tết khai hạ, tết thanh minh, tết Đoan Ngọ, tết Trùng cửu... Trong tiếng Việt, Tết còn dùng để chỉ một dịp đặc biệt duy nhất đầu năm - như người ta thường nói: ăn Tết, đi Tết, chơi Tết quả của sự rút ngọn và biến âm từ xuân tiết trong tiếng Hán hạy sự nói gọn từ Tết Nguyên đán (Tết cả) trong tiếng Việt.

Tết Nguyên đán

Nguyên đán là từ gốc Hán. Nguyên là "đứng đầu, số một, nhất", đán là "buổi sáng". Do đó, Tết Nguyên đán nghĩa là "Tết (mừng, của, vào) buổi sáng đầu (năm)".

Gọi như thế vì buổi sáng ngày mồng một tháng giêng là thời gian quan trọng nhất trong năm, năm mới chính thức bắt đầu, mọi hoạt động tiêu biểu nhất cho tết được tiến hành (lễ gia tiên, chúc mừng năm mới, mừng tuổi, chúc thọ người già, đại tiệc đầu năm...).

Điều kiện ngoại cảnh cũng rất đẹp và thuận lợi: bắt đầu sang xuân, cây cối đâm chồi nảy lộc, hoa nở, chim hót, không khí ấm áp, trời quang đãng, nhịp độ lao động vất vả của một năm tạm ngừng... Con người thư thái vui vẻ về tinh thần, trở nên lịch sự, cởi mở hơn về phong cách, rực rỡ hơn với dung nhan, trang phục mới...

Tất cả những hiện tượng trên đều tập trung vào buổi sáng đầu năm, khiến người ta cảm thấy buổi sáng đầu năm thật quan trọng và thiêng liêng. Ai cũng tin tưởng mơ ước mọi chuỵên trong năm đều diễn ra thuận tiện, suôn sẻ, tốt đẹp may mắn như buổi sáng đầu năm và cố gắng không làm điều xấu để khỏi xúi quẩy cả năm.

Tết Táo Quân

Táo gốc tiếng Hán có nghĩa là "bếp". Táo Quân hay ông Táo có nghĩa là "ông quản bếp", "ông vua bếp". Theo truyền thuyết nước ta, xưa có hai vợ chồng nghèo khổ quá phải bỏ nhau, mỗi người một nơi tha phương cầu thực. Sau đó, người vợ may mắn lấy được chồng giàu.

Một năm, vào ngày 23 tháng chạp, người chồng cũ đi ăn xin vô tình vào phải nhà người vợ cũ. Người vợ nhận ra chồng cũ, liền đem cho nhiều cơm gạo tiền bạc. Người chồng mới biết chuỵên nghi ngờ vợ. Người vợ khó xử, uất ức lao vào bếp lửa tự vẫn. Người chồng cũ đau xót, cũng nhảy vào lửa chết theo. Người chồng mới ân hận, lao vào lửa nốt! Trời thấy ba người đều có nghĩa nên phong cho họ làm "vua bếp"...

Truyền thuyết này thể hiện rất đậm nét trong sinh hoạt của người Việt. Trong bếp ngày xưa, thường có ba "ông đầu rau" - tức là ba hòn đất nặn dùng để kê nồi xanh đun bếp, trong đó có hai hòn nhỏ hơn hòn thứ ba. Và nhân dân có tục lệ thờ "hai ông một bà", ngày 23 tháng chạp hàng năm làm "lễ Táo quân", "Tết ông Công ông Táo", "tiễn ông Táo lên trầu trời"...

Đây có thể là ảnh hưởng của phong tục thờ thần lửa - một phong tục có từ lâu đời của nhiều dân tộc, tuy nhiên cách thể hiện ở mỗi nước một khác. Ví như ở Trung Quốc thời thời cổ đại, Táo quân (còn được gọi là "Táo thần", "Táo vương", "ông Táo"), đã được coi là một trong bẩy vị thần  được toàn dân cúng lễ. Nhưng nguồn gốc của táo quân thì không nhất quán.

Theo sách Hoài Nam Tử, Viêm đế (tức Thần Nông) mang lửa đến cho dân nên khi chết được thờ làm thần bếp. Sách Lã Thị Xuân Thu lại coi Chúc Dung mới là thần quản lý lửa (do Viêm Đế mang tới) nên khi chết người dân thờ làm thần lửa. Còn sách Tây Dương tạp trở thì kể: thần lửa trông như một cô gái đẹp, tên là Ổi hay Trương Đan, tên chữ là Tử Quách, những ngày không trăng thường lên trời tâu về việc người nào có lỗi...

Chuyện truyền miệng của người Trung Quốc lại cho rằng trước kia mỗi tháng vua bếp lên trời một lần vào ngày tối (ngày cuối tháng âm lịch) để báo cáo về từng người trong mỗi gia đình (nhất là về những người đàn bà làm điều xấu), sau này mỗi năm vua chỉ lên trời vào ngày 23 hoặc 24 tháng chạp. Đến ngày ấy, người Trung Quốc bày bàn thờ gần bếp, cúng vua bếp bằng thịt, cá, rượu nếp, bánh kẹo đặc biệt có thêm cả nước và cỏ khô (cho ngựa của vua bếp ăn để bay và trở vua lên trời - khác với táo quân của ta thì cưỡi cá chép lên trời)!

Còn việc "ông Công" và "ông Táo" được nhân dân ta cúng tiễn vào cùng một ngày có hai cách giải thích. Một: Công là từ rút gọn của Thổ Công. Cách giải thích thứ nhất xem ra có lý hơn bởi nếu theo cách thứ hai thì khó thể lý giải vì sao lễ tiễn ông Công lại trùng với lễ tiễn ông Táo?!

Đêm trừ tịch

Tịch gốc tiếng Hán nghĩa là "đêm". Tuy nhiên, theo nguyên tắc thuận ngữ, trong tiếng Việt người ta vẫn nói "đêm trừ tịch" chứ ít nói "trừ tịch", cũng như thường nói: chân thật, cây cổ thụ, sông Hồng Hà, núi Trường Sơn... Còn trong tiếng Hán có nhiều nghĩa, nhưng nghĩa gốc là "qua đi, bỏ đi". Như vậy, trừ tịch nghĩa là "đêm của năm qua đi" - đêm cuối cùng của năm cũ.

Tác giả Phan Kế Bính trong Việt Nam phong tục lại có cách lý giải hoàn toàn khác, coi trừ tịch là xua đuổi, trừ ma quỷ: Nguyên tục bên tàu ngày xưa, cứ vào hôm ấy thì dùng một trăm hai mươi đứa trẻ con, độ chín, mười tuổi, mặc áo thâm, đội mũ đỏ, cần trống, vừa đi đường vừa đánh để trừ khử ma quỷ, cho nên goi là trừ tịch.

Giao thừa

Giao gốc nghĩa tiếng Hán là "xen kẽ nhau, thay nhau" hoặc "nối tiếp nhau, trao đổi lẫn nhau"... còn thừa nghĩa là "đảm nhận, thi hành (nhiệm vụ, nghĩa vụ)" hoặc "thừa kế, kế tiếp"... Gọi là giao thừa vì theo quan niệm tín ngưỡng, 12 giờ đêm ngày 30 tháng chạp - thời điểm nối tiếp giữa năm cũ và năm mới - tức là lúc mà hai vị thần cai quản trần gian gọi là ông Hành Khiển), một cũ, và một mới, "bàn giao và tiếp nhận" công việc của nhau. Vào ngày này, nhân dân ta hay làm lễ thiên địa để cầu mong các vị thần ấy ban cho nhiều may mắn, hạnh phúc cho năm mới. Lễ thường bày ngoài trời vì mọi người cho rằng các vị thần rất bận không thể vào tận trong từng nhà để hưởng lễ!

Phong Hoá

Mục lục

 

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO

TÌM HIỂU MÙA CHAY

 

1. NGUỒN GỐC NGÀY THỨ TƯ TRƯỚC CHÚA NHẬT I MÙA CHAY

 

- Chay tịnh là một trong ba việc đạo đức căn bản của người tín hữu thời Cựu Ước, tức là cầu nguyện – chay tịnh và chia sẻ ( xc. Mt 16, 1 – 18 ). Giáo Hội Công Giáo kế thừa truyền thống này, nên có riêng thời gian để thực hiện việc chay tịnh. Đó là Mùa Chay.

 

- Buổi đầu ở Rô-ma, người ta chỉ ăn chay có một tuần, sau tăng lên 3 tuần.

 

- Đến hậu bán thế kỷ IV, theo tập tục của Đông Phương là giữ chay 40 ngày, Giáo Hội Công Giáo Rô-ma tăng thêm 3 tuần lễ nữa để có 6 tuần lễ ăn chay. Nhưng, vào thời đó, các Chúa Nhật, mừng Chúa Phục Sinh không được kể là ngày chay tịnh. Người tín hữu không ăn chay trong các ngày Chúa Nhật. Như vậy mới có 36 ngày chay tịnh. Đến thế kỷ VII, Đức Giáo Hoàng Gregorio lấy lên trước Chúa Nhật I Mùa Chay 4 ngày nữa để có đủ 40 ngày, tức là Thứ Tư Lễ Tro.

 

II. Ý NGHĨA CON SỐ TRÒN 40

 

- 40 năm Dân Chúa lang thang trong sa mạc đi tìm đất hứa ( Xh 16, 35; Tv 94, 10; Cv 7, 36 )

 

- Mô-sê chay tịnh 40 ngày đêm để chuẩn bị gặp Gia-vê trên đỉnh núi Si-nai ( Tl 9, 9 )

 

- Hành trình 40 ngày đi Khô-rép của ngôn sứ E-li-a đến nơi hẹn hò với Thiên Chúa ( 1 V 19, 8 )

 

- 40 đêm ngày mưa “rửa” trái đất trong lụt hồng thuỷ đời No-ê ( xc. Kn 7, 1 – 17 )

 

- 40 ngày dân thành Ni-ni-vê chay tịnh theo lời ngôn sứ Giô-na kêu gọi ( xc. Gn 3, 4 – 10 )

 

- Chúa Giê-su ăn chay 40 đêm ngày trước khi ra đi rao giảng Tin Mừng ( Mt 4, 1; Mc 1, 12 – 13; Lc 4, 1 – 2 )

 

- Đức Giê-su Phục Sinh hiện ra và nói về Nước Thiên Chúa suốt 40 ngày ( Cv 1, 3 )

 

Như thế, con số 40 ám chỉ “một thời gian cần và đủ”. Thời gian chay tịnh 40 ngày “cần và đủ” để giúp chúng ta nhận ra thân phận yếu hèn của mình so với Thiên Chúa siêu việt cao vời, đồng thời chuẩn bị chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa mặt đối mặt.

 

III. NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA VIỆC BỎ TRO TRÊN ĐẦU:

 

Thời xa xưa, Mùa Chay không những là thời gian chuẩn bị lãnh Bí Tích Thánh Tẩy cho những anh chị em Dự Tòng, mà còn là mùa sám hối cộng đồng nữa.

 

Trong những thế kỷ đầu, các tội phạm cách công khai, phải sám hối công khai. Vào ngày thứ tư đầu Mùa Chay, các tội nhân muốn tham dự cử hành Đại Lễ Phục Sinh phải ghi tên xin đền tội. Sau giờ kinh trưa, họ đến Nhà Thờ Chính Toà với quần áo vải xô, chân không mang dép, mặt cúi xuống đất, đứng ngoài cửa Nhà Thờ chờ Đức Giám Mục và đoàn tuỳ tòng của ngài đến.

 

Đức Giám Mục đến và cử hành việc bỏ tro trên đầu các tội nhân và đọc “Con hãy nhớ mình là bụi tro, và sẽ trở về tro bụi”. Sau khi trao cho mỗi hối nhân một chiếc áo nhặm để mặc trong suốt Mùa Chay, Đức Giám Mục khuyên bảo các hối nhân hãy trông cậy vào lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa, đồng thời hãy gia tăng cầu nguyện, chay tịnh và chia sẻ. Sau đó, họ phải trở về nhà và không được lui tới Nhà Thờ cho đến sáng Thứ Năm Tuần Thánh Đức Giám Mục sẽ long trọng hoà giải họ với Thiên Chúa và cho gia nhập lại cộng đoàn Hội Thánh. Cửa Nhà Thờ được đóng lại, Đức Giám Mục cùng các tín hữu còn lại cử hành Thánh Lễ riêng.

 

Mãi đến thế ký 13, lễ nghi làm phép tro và bỏ trên đầu mới trở thành phổ biến và được áp dụng cho hết mọi người, vì ai cũng là tội nhân trước mặt Thiên Chúa ( Tuy nhiên, tại một vài Giáo Phận ở Pháp, mãi đến thế kỷ 17, 18 mới áp dụng ).

 

Việc bỏ tro đã làm phép ( như nến, dầu, là... được làm phép ) lên đầu là một phụ tích. Nhờ lòng tin và lời cầu nguyện của Hội Thánh, Thiên Chúa ban ơn trợ giúp để các tín hữu sống Mùa Chay Thánh cách tốt đẹp hơn. Đồng thời, nhận lấy tro là biểu lộ ý chí thống hối muốn trở về cùng Thiên Chúa.

 

Cử hành Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta hãy có tâm tình thống hối, trở về với Thiên Chúa, hãy ý thức rằng mọi tội lỗi sẩy ra, mỗi người đều có phần nào trách nhiệm trong đó. Trong Thánh Lễ Thứ Tư Lễ Tro không có phần sám hối đầu Thánh Lễ.

 

IV. LUẬT GIỮ CHAY KIÊNG THỊT


1. Mục đích và ý nghĩa:


+ Trở về với Thiên Chúa.

+ Noi gương Chúa Giê-su và vâng lời Giáo Hội.

+ Hy sinh hãm mình đền tội.


+ Thành tâm sám hối tội lỗi.

+ Tham gia công tác từ thiện, bác ái.

+ Cầu nguyện và làm việc lành.


2. Tiêu chuẩn:


+ Tuổi giữ chay, theo GL 97 và 1252: “Mọi tín hữu tuổi từ 18 cho đến 60 tuổi thì buộc phải giữ chay”.

+ Tuổi ăn kiêng, theo GL 1252: “buộc những tín hữu tuổi từ 14 trở lên”.


+ Tại Việt Nam hiện nay chỉ còn buộc giữ chay hai ngày ( Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh ). Một số Giáo Phận còn giữ luật cũ ( tất cả các ngày Thứ Sáu trong Mua Chay ).


+ Luật giữ chay kiêng thịt cũng có thể miễn hoặc giảm cho những người ( già yếu, đau bệnh, phụ nữ có thai, phụ nữ nuôi con bằng sữa mẹ... )


3. Cách thức:


+ Chỉ ăn một bữa no trong ngày. Nếu lấy bữa trưa là chính thì bữa sáng và bữa tối chỉ được ăn chút đỉnh.
+ Không ăn các loại “thịt”.

+ Không ăn quà vặt trong ngày.

+ Không uống các thức uống có chất kích thích như rượu, bia...


4. Kinh Thánh dạy ta ăn chay thế nào để đẹp lòng Thiên Chúa?


- Is 58, 2 – 12: Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm ? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục ?


- Ge 2, 12 – 13: Đây là sấm ngôn của Đức Chúa: "Nhưng ngay cả lúc này, các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van". Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, Người hối tiếc vì đã giáng hoạ.


- Hc 34, 26: Cũng thế, kẻ ăn chay đền tội, rồi đi phạm lại vẫn những tội ấy, hỏi ai sẽ nghe lời nó cầu xin ? Hạ mình kiểu đó, nào được ích lợi gì ?


- Mt 6,16-18: Còn khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh em, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh em ăn chay, ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh em, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh em.


B] Tóm lại:


Mùa Chay là mùa mà Giáo Hội kêu gọi mọi người Ki-tô hữu sống tinh thần: “Âm thầm cầu nguyện, lặng lẽ hy sinh và thành tâm sám hối”.


Để có thể giữ chay tốt, ta nên chú ý đến ý nghĩa của việc giữ chay hơn là những tiêu chẩn và cách thức (hình thức ). Ví dụ như: nếu ta giữ đúng những tiêu chuẩn và cách thức của luật giữ chay, mà lại thay thế bữa thịt bằng một bữa ăn đặc sản vùng biển tốn kém, thì còn gì là ý nghĩa chay tịnh nữa.


Đàng khác, nếu ta chỉ giữ chay với thói quen hình thức, mà không yêu thương, từ tốn, nhã nhặn, tha thứ cho những người xung quanh ta, thì giữ chay nào có ích gì.


Vậy, ăn chay theo Công Giáo là nhịn ăn hoặc bớt ăn để diễn tả sự hy sinh tự nguyện, để cổ võ lòng đạo đức hoặc lập thêm công đức; hơn nữa, nhịn ăn hay bớt ăn cũng là để chia sẻ với người nghèo khó trong tinh thần bác ái và phục vụ.


Trích Tài liệu Giáo Lý Phú Trung

Mục lục

 

MÙA XUÂN CỦA TÌNH YÊU

Một hôm nọ, thánh Phanxicô Salêsiô, vốn có bẩm tính rất nóng nảy, đã gặp một vị khách lớn tiếng phê bình, chỉ trích, cãi vã, rồi đập bàn ghế mà mắng nhiếc ngài không biết mệt. Thánh nhân cứ nhã nhặn ngồi nghe một cách vui vẻ, lại còn mời ông khách uống nước và hút thuốc. Thái độ dịu dàng làm cho ông khách thấy hụt hẫng, phải lúng túng rút lui.

Hôm đó, anh của ngài đến thăm em phải ngồi ở trong mà theo dõi câu chuyện, có lúc nổi nóng muốn xông ra gây sự với ông khách đó. Khi khách về rồi, ông mới nhảy ra nói với thánh nhân :

-           Này chú, xưa chú nóng như lửa mà sao bây giờ lại đổi tính ra khác thế? Tôi thực không chịu được thái độ của ông khách vừa rồi.

-           Anh ạ, ai cũng có máu Ađam. Em cũng bực trong lòng lắm, nhưng nghĩ lại, em muốn noi gương Chúa Cứu thế hiền lành và khiêm nhường nên em cố gắng nhịn nhục, và đây cũng là dịp tốt cho em tập sống hiền lành đích thực mà thôi, anh ạ.

Cũng như khí hậu có tứ thời bát tiết, lòng người thay đổi không ngừng giữa yêu và ghét, giữa tốt và xấu …; nhưng cái bất ổn của thời tiết vẫn không làm thay đổi cái khung ổn định của khí hậu : qua hạ đến thu, hết đông sang xuân, và cái tính hay thay đổi của con người càng làm rực sáng lên tình yêu không thay đổi của Thiên Chúa, như một hằng số làm cột trụ cho lịch sử cứu độ : “Tình thương Chúa, đời đời con ca tụng, qua muôn ngàn thế hệ miệng con rao giảng lòng thành tín của Ngài” (Tv 89,2).

Mùa xuân là mùa của nhiều điều kỳ diệu : hôm qua chỉ là một cành mai khẳng khiu thì hôm nay đã vàng rực những cánh mai vàng, hôm qua có người than thở vì công việc nặng nhọc thì hôm nay đi đến đâu cũng chỉ thấy nụ cười… Nếu ngày Tết là ngày chấm dứt mùa đông để bắt đầu một mùa xuân mới cho dòng đời thì ơn cứu độ là sự chấm dứt thời gian trị vì của tội lỗi và sự chết để bắt đầu cho một cuộc sáng tạo mới : “Bấy giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất” (Kh 21,1), với phút giao thừa là lúc con người nhận ra và trở về với tình thương của Chúa : “Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương” (Ge 2,13).

Vâng, khi tâm hồn tan nát vì thống hối tội lỗi của mình là lúc tình yêu Chúa chiếu giãi niềm vui và sự bình an vượt trên mọi sự an vui giả tạo của trần thế. Dù phạm một tội rất nặng, vừa ngoại tình vừa giết người, nhưng thật hay là Đavít đã nhận biết tội mình : “Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài” (Tv 51,12-13).

Chính khi nhận biết tội mình cũng là lúc người ta vui mừng nhận ra tình yêu cứu độ của Chúa, tình yêu lớn lao đến nỗi đã sẵn sàng thí mạng vì chúng ta - những người tội lỗi : “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2Cr 5,21).

Không phải là xé áo mà phải xé lòng mới có thể đem lại niềm vui ơn cứu độ : xé lòng là thực sự nhận biết tội lỗi quá lớn của mình xúc phạm đến Chúa, và nhận biết tình yêu thương bao la của Chúa, tình yêu phủ lấp muôn vàn tội lỗi, đã yêu chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân : “Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,8)

Vua Thêôđôsiô I, cai trị đế quốc La mã từ năm 379 đến 395. Nhà vua có nhiều công đối với đế quốc La mã trong những ngày suy tàn, và cũng xây dựng cho Giáo hội nhiều thánh đường. Nhưng khi đưa quân đi dẹp loạn ở Thessalonica, vua đã sát hại dân lành cách dã man. Khi thắng trận trở về với đạo quân hùng mạnh tiến đến thánh đường Milan thì nhà vua bị thánh Ambrôsiô ngăn lại. Biết tội mình, nhà vua đã tự bào chữa :

-           Xưa vua Đavít phạm tội và Chúa đã tha.

-           Vua Đavít phạm tội, nhưng đã biết thống hối, thánh nhân trả lời.

Nghe thế, vua lui về hoàng cung thống hối trong tám tháng. Vào lễ Giáng sinh, nhà vua khóc lóc xin tha tội, rồi cởi cẩm bào, phủ phục dưới thềm nhà thờ, và xếp hàng với những tội nhân công khai vì vào thời đó các tội nhân công khai phải đứng tại cửa nhà thờ. Việc đó làm cho dân cả thành Milan cảm thấy mến phục nhà vua. Sau đó nhà vua đã qua đời trong vòng tay yêu thương của thánh Ambrôxiô vào năm 395.

Hoa mai nở ra mùa xuân, tình yêu Chúa vượt thắng mọi tội lỗi vì “sự sa ngã của A-đam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa” (Rm 5,15), và làm nở ra niềm vui ơn cứu độ, làm cho mọi tội nhân đều có thể cùng vua Đavít ca khen lòng Chúa xót thương : “Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài” (Tv 51,17).            

Lm. HK

Mục lục

 

Môi trường Giáo Dục Gia Đình

 

Trong Thư Chung HĐGMVN 2007 về Giáo dục Kitô giáo gồm 39 số, gia đình được bàn đến nơi số 28 như một trong những môi trường giáo dục đặc thù, vừa tác động trực tiếp  vừa để lại âm hưởng dài lâu làm nên tính cách của những người sống trong cùng một mái nhà cả, về mặt nhân bản lẫn mặt đức tin. Dẫu gia đình không phải là chủ đề trực tiếp của bức thư, nhưng những gì liên hệ đến thực trạng gia đình  hiện nay và của gia đình cũng được nhắc đến khá nhiều lần.

 

Có chút dấu hiệu lạc quan “về phía phụ huynh, không ít người sẵn sàng chắt chiu dành dụm từng đồng cho con cái ăn học”(số 8) ; nhưng cũng có những tiếng thở than quan ngại. Nào là “nền văn hoá gia đình đang bị khủng hoảng”: nào là “người ta không còn dành thời giờ cho cuộc sinh hoạt đầm ấm trong gia đình”; nào là “tương quan vợ chồng, cha mẹ con cái mỗi lúc một lỏng lẻo suy yếu”.; nào là ‘chủ nghĩa khoa bảng đang gây ra guy cơ đưa gia đình vào thái độ háo danh” (số 11); và nào là “nhiều bậc phụ huynh công giáo vẫn còn lơ là hoặc thiếu trách nhiệm trong việc thông truyền đức tin cho con cái” ( số 15).

 

Cách riêng, phần cuối bức thư số 38, đã đề ra phương hướng chấn chỉnh lại nền giáo dục Kitô giáo tại Việt Nam, trong đó bước đầu tiên là “chấn chỉnh môi trường giáo dục gia đình công giáo”(số 38). Dựa trên định hướng ấy, xin nêu lên vài gợi ý.

 

Bầu khí yêu thương

 

Nếu điểm đến bình thường của tình yêu nam nữ là hôn nhân, thì thuận lý đến cùng, điểm đến của hôn nhân sẽ là một gia đình hạnh phúc với tình yêu tiếp nối tình yêu, cụ thế hoá trong con cái là những hoa trái trổ sinh trong gia đình ấy. Chuyện tình có hậu là như thế, ai mà chả biết. Một công thức hoá học có thể bất di bất dịch như công thức H2O chẵng hạn, cứ hai phân tử Hydro hợp với một phân tử Oxy trong điều kiện bình thường là đương nhiên tạo ra nước. Nhưng gia đình thì khác. Có cha, có mẹ có con cái không đương nhiên làm nên hạnh phúc. Vẫn biết gia đình có gốc nguồn là yêu thương, mà yêu thương luôn luôn sinh động, nên gia đình cũng cần vun bồi để yêu thương được triển nở phù hợp với tầm vóc lớn rộng của gia đình.

 

Yêu thương cụ thể là mỗi thành viên của gia đình biết chăm sóc nhau, biết chăm lo cho nhau và biết chăm chút đến nhau sao cho ai nấy đều được phát triển cả về thể lý, tâm lý  và mọi đức tính phù hợp với cá nhân và cộng đồng.Yêu nhau cau bẩy bổ ba. Yêu nhau trái ấu cũng tròn. Yêu nhau chin bỏ làm mười. Yêu nhau mấy núi cũng trèo. Tất cả những biểu hiện yêu thương ấy, từng trường hợp một hoặc cộng chung lại sẽ làm thành một bầu khí thuận lợi cho gia đình được thăng tiến. Yêu thương là mối dây liên kết mọi người trong nhà để mái nhà trở thành khuôn nôi sự sống và cũng là trường lớp tự nhiên cho những bài học làm người. Bầu khí yêu thương trong gia đình chắc chắn sẽ là một dung môi tuyệt hảo để việc giáo dục đem lại những kết quả bền lâu trong đời một người, đến nỗi sau này người ấy có phải cáng đáng những trách vụ xã hội cũng luôn có đó nền tảng bản thân mà đi tới, hoặc có gặp những khó khăn ngoại cảnh cũng vẫn có đó điểm quy chiếu mà tìm về.

Ngược lại, thiều vắng bầu khí yêu thương trong một gia đình sẽ dẫn đến khởi đầu là sự mất cân đối và xa hơn là những hình thái khác nhau được gọi chung là sự khủng hoảng. Có thể chỉ là bấu khí hoang vắng tẻ lạnh người này chịu đựng người kia, có thể một ngày dẫn tới xung đột bằng bạo động gây thương tổn tâm lý và nhiều khi gây ra thương tích thể lý nữa. tình trạng ấy lâu ngày tiếp nối có thể sẽ đem đến một kết cục không chờ đợi, hạnh phúc đổ bể, gia đình tan nát.

 

Chấn chỉnh môi trường giáo dục trước hết là chấn chỉnh từ cội rễ của gia đình chính là bầu khí yêu thương. Gia đình còn yêu thương, gia đình còn biết dạy cho nhau chăm chút hạnh phúc cho dẫu có gặp khó khăn cũng được tháo gỡ có gặp sóng gió cũng được nâng đỡ để vượt qua, nhưng một bầu khí yêu thương trong gia đình không còn nữa, sẽ là một thảm hoạ không tên.

 

Nếu Thư chung 2007 có thảng thốt kêu lớn “nền giáo dục gia đình đang bị khủng hoảng” thì sau tiếng kêu ấy là cả một cơ sở thực tế để bày tỏ mối quan ngại cho môi trường giáo dục gia đình hiện nay. Gia đình không chỉ là mái nhà che nắng trú mưa mà gia đình còn là và phải là  mái trường của yêu thương.Chính bầu khí yêu thương sẽ là môi trường tuyệt hảo để gia đình sẵn sàng đảm nhận vai trò của trường lớp đầu tiên trong đời một người. Thầy dạy đầu tiên về chữ nghĩa là thầy cô ở trường, còn thầy dạy đầu tiên về nhân cách chính là phụ huynh tại gia đình.

 

Mẫu gương đời sống.

 

Nếu bầu khí yêu thương trong gia đình được xem như trường lớp thì gương sáng đời sống của những người vai trên trong gia đình như ông bà cha mẹ anh chị sẽ là những bài học trực tiếp hơn cả cho những thế hệ vai dưới. “Ông bà cha mẹ mẫu mực, con cái thảo hiền” không chỉ là một châm ngôn nêu lên chương trình thực hiện, mà thực ra đã là một chân lý được kiểm nghiệm qua thực tế cuộc sống.

 

Đối với trẻ em, cha mẹ là tất cả : từ cơm ăn áo mặc đến yêu thương dạy dỗ;  từ cuộc sống cá nhân đến tương quan xã hội; từ hiện tại đến tương lai. Vì thế trẻ em hoàn toàn tin tưởng nơi mẹ cha và làm theo những gì cha mẹ dạy bảo.Cha nhưđỉnh thái, con cái nương thân; mẹ như nước nguồn, các con tắm mát. Ngoài ra, trẻ em vốn luôn bắt chước người lớn, nên cha mẹ anh chị trong gia đình chính là những người mẫu trẻ em rập khuôn theo đó để cư xử hành động. Cha nào con nấy, nhân gian vẫn bảo vậy.

 

Trên cơ sở kỹ năng bắt chước nơi trẻ em, những người lớn trong gia đình trở nên mẫu gương đời sống cho những người nhỏ tuổi..Những đức tính nhân bản được tuần tự xây dựng ở đây để từ hạt mầm nguyên mẫu, sẽ được lớn lên và nhân tăng theo tuổi đời cũng như theo tầm vóc tương giao trong cuộc sống xã hội sau này. Dạy con từ thuở còn thơ. Dạy con từng bước theo lứa tuổi mầm chồi lá. Dạy con không sao lãng. Dạy con bằng gương sáng. Đó là thiên chức và cũng là trách nhiệm của đấng bậc sinh thành. Chim dạy con vỗ cánh, gà dạy con kiếm mồi, cha mẹ trong gia đình sẽ dạy con cái lẽ phải, tình người, lễ nghĩa, gia phong, để khi cất lời, con cái sẽ hoà chung tiếng hát : “Ba sẽ là cánh chim, đưa con đi thật xa ; mẹ sẽ là cành hoa cho con cài lên ngực”.

 

Nhà văn Marquez tâm sự rằng điều ông áy náy nhất là có lần vô tình làm cho đứa cháu phải buồn. Trong chuyến đi thực tế miền quê ông hứa sẽ bắt về cho cháu một con đom đóm, nhưng ông quên khuấy đi mất, tới lúc về nhà đứa cháu hỏi ông mới chợt nhớ lại. Sau này ông đã làm hết cách để thực hiện bằng được lời hứa với đứa cháu. Nhân tiện ông cũng dẫn giải : trẻ em nhìn vào người lớn, vì thế người lớn cần giữ đúng lời hứa để trẻ em cũng biết học bài tôn trọng sự thật.

 

Nếu trong môi trường giáo dục gia đình, gương sang tạo nên hiệu quả tích cực dài lâu thi gương xấu lại kéo theo những hậu quả khôn lường. Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Chương trình “trong nhà ngoài phố” trước đây đã nêu lên trường hợp người mẹ dạy con không được nói dối, nhưng sau đó bà mệt phải đi nghỉ và dặn con là nếu có ai hỏi mẹ có ở nhà không thì trả lời là mẹ đi vắng nhé. Bài học tôn trọng sự thật ở đây đã đi vào ngõ cụt.

 

Báo Thanh Niên số ra ngày 13.01.2008 trong mục Lăng kính cuối tuần, đã nêu lên một trường hợp thương tâm chỉ vì “gương xấu” Đó là trường hợp cụ bà Đặng Thị Nài 83 tuổi, bị chấn thương hàm mặt, gẫy cổ xương đùi do bị đánh và đá chết ? Ai ngược đãi cụ. Thưa rằng đó là vợ chồng cháu nội cụ. Trần Chí Hiếu hiện đang làm ở Công ty xăng dầu Quảng Bình và vợ là Nguyễn Thị Hiền, giáo viên phổ thông, theo gương ngược đãi bà  nội của bố mẹ họ, ông Thừa bà Tầm !

 

Chấn chỉnh môi trường giáo dục gia đình bằng gương sáng ở đây đã trở thành tiếng báo động và lời mời gọi mang tính thời sự.

 

VUN TRỒNG LÝ TƯỞNG KITÔ GIÁO

 

Khi gia đình đã tạo lập được bầu khí yêu thương thực sự giữa mọi thành viên già trẻ lớn bé và chăm chút xem mẫu gương đời sống như những bài học sống động thông truyền  thì môi trường giáo dục dẫu vẫn còn phải khơi nguồn chắt lọc cũng đã là một khả thể trong tầm tay. Số 38 của Thư Chung rất có lý để nêu lên : “Giáo dục là cả một công trình  dài lâu”. Dài suốt đời. Ngày nào còn sống, ngày ấy còn phải học. Bảy mươi học bảy mốt mà lại. Tuy nhiên theo Thư Chung, môi trường giáo dục gia đình công giáo còn đặt trọng tâm vào việc vun trồng lý tưởng Kitô giáo : “Mục đích của nền giáo dục Kitô giáo không chỉ là rèn luyện nhân cách con người thành hữu ích đối với bản thân, gia đình và xã hội, mà còn là giúp con người sống xứng đáng với tư cách con Thiên Chúa để mai sau trở thành công dân Nước Trời” (số 3). Nói cách cụ thể hơn, mỗi người công giáo cần nắm bắt định hướng, biến gia đình mình thành một ngôi trường rèn luyện sao cho mọi người trong nhà nên tốt hôm nay hầu giúp ích cho xã hội và Giáo hội mai ngày.

 

Nhìn như “Giáo hội tại gia”, gia đình trở nên trường học tự nhiên và căn bản trong nền giáo dục Kitô giáo. Chính trong gia đình, đức tin được đón nhận, được thể hiện, được chuyển dịch vào cuộc sống và được thông truyền từ người lớn cho những ngưới ít tuổi hơn qua giảng giải cũng như qua gương sáng “Nơi đây đức tin được truyền thụ qua những lời cầu nguyện, lời nhủ bảo, đặc biệt trong những biến cố vui buồn của cuộc sống và qua những mẫu gương đức tin” (số 28). Thánh Giáo Hoàng Piô X thú nhận rằng tất cả những điều căn bản về đức tin công giáo đã được truyền thụ cho ngài từ trên đầu gối của  thân mẫu. Con vừa mọc răng đã được học “ạ Chúa ạ Mẹ”  con vừa bập bẹ đã được dạy cho làm dấu Thánh Giá. Tất cả tưởng chỉ là thói quen cũa lòng đạo đức bình dân, nhưng đã trở thành lối sống tự nhiên như hơi thở cần thiết cho mọi gia đình công giáo. Ngày xưa là con, cha mẹ mình làm tốt cho mình thế nào, hôm nay trở thành cha mẹ, mình lại tiếp nối làm tốt cho con cái mình thế nấy. Đó là truyền thống đức tin của gia đình và đó cũng là thông truyền đức tin từ cha mẹ cho con cái. Xem quả biết cây.

 

Một gia đình trẻ tại Sài gòn kể lại rằng sở dĩ anh chị thuộc kinh là vì cậu con trai đầu lòng 6 tuổi. Anh chị bận đi làm, bé ở nhà với bà nội và được bà nội dạy cho đọc đủ thứ kinh.  Tối nào trước khi đi ngủ, bé cũng bắt anh chị phải đọc kinh chung và thế là anh chị phải học thuộc để đọc với con. Một chị tân tòng còn kể lại lý do chị đến với đức tin công giáo, nghe cứ như chuyện trẻ con mà lại rất thật. Chị gởi con gái đầu lòng nơi nhà trẻ của các dì MTG. Chẳng biết cháu học gì nhưng chiều nào về nhà cũng bắt mẹ phải làm dấu  Thánh Giá trước bữa ăn. Lấy làm lạ chị đi tìm hiểu và vài năm sau cả hai mẹ con gia nhập đạo Công Giáo.

 

Thế đấy, đức tin có nhiều ngả tìm đến các tâm hồn. Đức tin là hồng ân. Nhưng điều muốn ghi nhận ở đây là những hình thái của lý tưởng và của đức tin Kitô giáo, dẫu đơn sơ, nếu được khởi xướng và nôi dưỡng trong môi trường giáo dục gia đình, sẽ có cơ may để triển nở và sau này bằng muôn ngàn cách Chúa muốn, sẽ đơm bong và đem lại những hoa trái bất ngờ.

 

Tóm lại, hoạ lại lời kêu gọi của Thư Chung 2007, trong việc “chấn chỉnh môi trường giáo dục gia đình Công giáo” bằng cách củng cố bầu khí yêu thương, nêu cao mẫu gương đời sống và vun trồng lý tưởng Kitô giáo, thiết tưởng cũng là một cách đọc và học Thư Chung HĐGMVN.

 

Kênh HBO mới phát sóng cuốn phim “Bức tường lửa” (Firewall) kể lại chuyện một gia đình đang gặp khủng hoảng. Người cha là chuyên viên thảo chương trong một ngân hàng, bị bọn xấu gây áp lực để chuyển giao mật mã khách hàng cho chúng bòn rút tài khoản; người mẹ và hai đứa con nhỏ bị bắt làm con tin. Căng thẳng, đấu trí. Đã có khi chừng như bế tắc. Đã có lúc tưởng phải thí mạng. Nhưng nhờ tình yêu gia đình mãnh liệt, người cha đã có thêm sức mạnh để đối phó rồi cuối cùng diệt được bọn xấu và giải thoát cho cả gia đình. Cuốn phim có hậu, muốn truyền đi một thông điệp: tình yêu gia đình là “bức tường  lửa” không thế lực nào có thể làm chao đảo và không mưu mô nào có thể xâm nhập phá huỷ được.

 

Giữa bôn bề cuộc sống, nếu mỗi gia đình đều trang bị được “bức tường lửa”đầy yêu thương này, sẽ trước mắt tránh khỏi những tác hại của cơn khủng hoảng và, dài hơn nữa,  có sẵn  tiền đề để xốc tới trong nhiệm vụ giáo dục.

ĐGM Giuse Vũ Duy Thống

Mục lục

 

 

ĐỪNG QUÊN NGƯỜI NGHÈO KHỔ & CHỊU THIỆT THÒI!

Giờ tin tức buổi tối của đài truyền hình VTV1. Lại thấy nói đến chuyện cấm xe ba bốn bánh thô sơ và gánh hàng rong trong thành phố. Bỗng ông thầy già ngồi bên tôi lên tiếng: “Họ không có chút tình thương nào đối với người nghèo khổ. Họ chỉ biết ngồi trong phòng cơ quan mà ra lệnh cấm, cấm, cấm! Thành phố sẽ đẹp hơn để làm gì khi một lệnh cấm đẩy hàng vạn gia đình vào cảnh khốn khó! Chính quyền chưa lo cho mọi người dân được no ấm thì thì ít ra cũng phải để người ta sống qua ngày với những nghề lương thiện người ta đang có, chứ sao lại đạp bể nồi cơm người ta đi?...” Ông thầy khiến tôi ngạc nhiên, vì xưa nay ông rất ít nói. Có vẻ như ông không thể kiềm hãm được nỗi bức xúc của mình bị dồn nén lâu nay, nên mới gay gắt như thế. Phản ứng của ông thầy già chúng tôi không nằm ngoài làn sóng phê bình, phản biện của dư luận xã hội và của nhiều phương tiện truyền thông đối với quyết định trên đây của Bộ Giao thông-Vận tải. Cũng nhờ đó mà quyết định chưa được áp dụng ngay.

Chuyện cấm này làm cho tôi nhớ lại một bài thuyết trình về vấn đề xã hội đã được nghe tại Đại học Louvain ở Bỉ vào khoảng 1969. Một tư tưởng được diễn giả nhấn mạnh là khi chính quyền muốn lấy một quyết định có thể mang lại một tiến bộ nào đó về mặt kinh tế hay kỹ thuật mà gây thiệt hại cho xã hội, văn hoá hay một bộ phận dân chúng thì phải cân nhắc hết sức thận trọng. Ông lấy thí dụ: chính quyền một thành phố được một nhà tư bản đề nghị làm đẹp thành phố bằng cách đặt và khai thác một loạt những máy đánh giày tự động ở những nơi đông người qua lại …Theo đề nghị thì thành phố còn được lợi về kinh tế nữa. Diễn giả nói tiếp: một chính quyền biết lo cho dân thì lập tức phải nghĩ tới số phận những em bé đánh giày sẽ ra sao nếu đề nghị trên của nhà tư bản được chấp nhận? Không thể dễ dàng lấy cuộc sống của hàng trăm con người đánh đổi với một mối lợi vật chất trước mắt.

Ở nước ta, những chuyện tương tự, và thường ở tầm mức rộng lớn hơn, đang diễn ra hằng ngày trong tiến trình hiện đại hoá, công nghiệp hoá đất nước. Hàng ngàn, hàng vạn người nông dân bất bình kéo nhau đi thưa kiện vì chính quyền lấy đất nhưng không đền bù thoả đáng cho họ, không chuẩn bị một kế hoạch tái định cư thoả đáng, hay chuyển đổi nghề nghiệp cho họ …(có làm thì dường như chỉ làm chiếu lệ, kiểu “đem con bỏ chợ”) khiến cuộc sống của họ trong chốc lát trở thành bấp bênh, không có tương lai, và cảm thấy như mình bị o ép, bị bỏ rơi, thậm chí bị bóc lột. Chính quyền chỉ nhìn lợi ích của mình hay của nhà đầu tư mà coi nhẹ lợi ích của người dân.

Thời gian gần Tết này, chuyện công nhân đình công xảy ra hàng loạt. Báo chí Thành phố mấy ngày qua cho biết: 18/1/2008, ở khu chế xuất Tân Thuận, 1.000 công nhân của Cty Nissey (100% vốn Nhật Bản) đình công đòi tăng lương; 200 công nhân của Cty Đông-Ya (100% vốn Đài Loan) cũng đình công yêu cầu chỉnh lương và cải tiến bữa ăn; ngày 23/1 cũng ở khu chế xuất này có đến 7 vụ đình công trong đó có 4 vụ xảy ra ở những doanh nghiệp có vốn đầu tư Nhật Bản. Báo Tuổi Trẻ ra ngày 24/1 tổng kết: ở Long An, từ đầu năm 2008 đã có 20 cuộc đình công. Chắc ở Bình Dương, tình hình cũng không khá hơn. Công nhân đình công vì họ thấy mình bị khai thác sức lao động quá mức (như tăng ca) nhưng lại nhận được đồng lương ít ỏi và điều kiện làm việc cũng nghèo nàn.

Đáng lý Công đoàn phải vào cuộc, phải ủng hộ công nhân nếu thực sự quyền lợi của họ bị xâm phạm, đó là bổn phận chính yếu của họ; nhưng hiếm khi tôi thấy báo chí nhắc tới cán bộ công đoàn; nếu có thì thường không phải để “khen” họ nhiệt tình ủng hộ công nhân mà là để “chê” họ đứng về phía chủ nhà máy vì ăn lương nhà máy. Điển hình: ngày 18/1/2008 tại Tp HCM,18 nữ công nhân của Cty Tasko Vina (100% vốn Hàn Quốc) sau khi làm việc 30 phút đã lần lượt ngất xỉu phải đưa đi cấp cứu tại bệnh viện Hốc Môn. Bác sĩ bệnh viện nói họ ngất xỉu vì quá mệt mỏi do tăng ca. Thế nhưng bà Hồ thị Ngọc Trang, xưng là thủ quĩ kiêm phó chủ tịch công đoàn công ty lại nói: công nhân ngất xỉu vì sợ MA! Bà ta còn nói: Cty có 200 công nhân, mọi người đều được chăm sóc chu đáo … Các công nhân cấp cứu liền phản bác: bà Trang nói dối! Sự thật là hai tuần qua, công nhân bị ép tăng ca 6 ngày mỗi tuần, từ 17G đến 20G30; tối ngày 17/1 sau khi tăng ca đến 20G30, công ty đóng cửa, không cho về nhà! Một cán bộ công đoàn (chắc chắn là đảng viên) nói về “giai cấp công nhân” của mình như thế thật lạ lùng!

Nền kinh tế thị trường thay cho kinh tế bao cấp đã nâng cao đời sống của nhân dân lên một mức, nhưng nói chung chiếc bánh phát triển được chia phần lớn cho một lớp người nào đó (mà không chắc là vì họ kinh doanh, lao động nhiều và giỏi), còn đại bộ phận nhân dân chưa được hưởng phần tương xứng, nhất là giới nông dân. Khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn; chênh lệch nông thôn và thành thị cũng thế. Ông Đặng Ngọc Dinh thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ nói: “Nguồn lực nông dân, nông nghiệp, nông thôn đang được huy động cho phát triển nhưng chính sách đầu tư trở lại chưa cân xứng.” Một cuộc điều tra của Chi cục Phát triển nông thôn Tp Hồ Chí Minh cho thấy năm 2006, trong nhóm những người nông dân bị thu hồi đất con số lao động bị thất nghiệp tăng từ 28,1 lên 38,88%, còn số người chuyển qua được công nghiệp chỉ tăng từ 3,1 lên 6,6% (x.Tuổi Trẻ ngày 12/12/2007, tr 3).

Người ta cũng tính toán rằng 90% lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam do nông dân đồng bằng sông Cửu Long làm ra. Một lượng cực lớn cà phê xuất khẩu cũng do nông dân Tây nguyên mang lại, nhưng đời sống bà con hai vùng này vẫn thấp nhất nước. Giá nông sản gần đây tăng cao thì thực chất phần giá trị gia tăng lớn nhất không vào túi nông dân mà vào túi các danh nghiệp, các trung gian; còn khi giá cả hạ xuống thì nông dân là người đầu tiên phải khốn đốn vì nhà nước vẫn không có chính sách trợ giúp, trong lúc giá phân bón, thức ăn gia súc, gia cầm cứ tăng vùn vụt (x. Tuổi Trẻ 11/1/2008).

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu từ 14 đến 22/1/2008 tại Hà Nội đã nêu lên bốn đặc điểm của định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam nhu sau: 1/ thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; 2/phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; 3/thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người…; 4/ phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Đối chiếu những mục tiêu trên đây với thực tế, người ta thấy còn rất nhiều điều phải băn khoăn. Có những mục tiêu chúng ta phấn đấu đạt tới thì rất nhiều nước tư bản chủ nghĩa xa gần đã thực hiện tốt, có khi rất tốt (ví dụ mục tiêu 1 và mục tiêu 3), và thực ra đó chẳng có gì là xã hội chủ nghĩa cả; còn những gì ta đang thực hiện có vẻ “tốt” như nhấn mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước hay bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết kinh tế của Nhà nước thì trong thực tế chưa biết là thúc đẩy hay kiềm hãm sự phát triển lành mạnh của kinh tế? Nghi vấn này xin để cho các nhà chuyên môn trả lời.

Tôi nói lên mấy điều trên đây từ nỗi bức xúc trước tình hình phát triển kinh tế và xã hội của đất nước, và tôi xin đúc kết lại trong một câu: Xin đừng quên quần chúng nhân dân nghèo khổ và chịu thiệt thòi trong sự phát triển chung!

28/01/2008

Lm Nguyễn Hồng Giáo, dòng Phanxicô

Mục lục

 

KỶ NIỆM 75 NĂM ĐỨC MẸ HIỆN RA TẠI BANNEUX (NƯỚC BỈ)


Cách đây đúng 75 năm, tại một làng nhỏ Banneux ở vương quốc Bỉ, Đức Mẹ MARIA đã hiện ra 8 lần với một bé gái 12 tuổi, tên Mariette Beco.


Lần hiện ra đầu tiên xảy ra vào Chúa Nhật 15-1-1933.


7 giờ tối hôm đó, Mariette đứng chống tay nơi cửa sổ nhìn ra đường, trông ngóng đứa em trai 10 tuổi, đi vắng từ trưa chưa thấy về. Bỗng cô bé trông thấy một người đàn bà sáng láng, đứng bất động trong vườn, cách cô bé chừng vài thước.


Mariette cảm thấy sợ hãi. Cô bé chạy đến với thân mẫu và kể cho mẹ nghe. Bà mẹ nghĩ ngay: ”Chắc là con nít sợ hão sợ huyền đây!” Nghĩ thế, nhưng bà cũng theo con đến bên cửa sổ. Nhìn ra, bà cũng trông thấy, nhưng không rõ như Mariette. Bà chỉ trông thấy một vật mầu trắng sáng láng, giống như hình người phủ kín bằng tấm vải, đầu hơi nghiêng về bên trái. Bà nói với con:


- Mụ phù thủy đó con à!

 

Mariette cãi lại:


- Không phải vậy đâu Má! Đây là Đức Mẹ MARIA thật đó! Đức Mẹ mĩm cười với con mà! Đức Mẹ đẹp quá chừng mà!

 

Mariette không còn sợ hãi nữa. Cô bé lấy tràng hạt Mân Côi ra lần. Vừa lần hạt cô bé vừa chiêm ngưỡng dung nhan tuyệt đẹp của Đức Mẹ MARIA. Đức Mẹ vẫy tay gọi và cô bé hiểu là Đức Mẹ muốn gặp mình. Cô bé liền rời cửa sổ và định mở cửa đi ra vườn. Nhưng bà mẹ ngăn cản không cho con đi và khóa cửa ra vào lại. Khi Mariette trở lại bên cửa sổ, thì Bà Đẹp đã biến mất.

 

Ba ngày sau - thứ tư 18-1-1933 - cũng đúng 7 giờ tối, như có sức mạnh bên trong thúc đẩy, Mariette bước ra khỏi nhà. Cô bé quỳ gối trên lối đi dẫn ra vườn và lấy tràng hạt Mân Côi ra lần. Bỗng Đức Mẹ MARIA hiện ra và tiến đến gần cô bé. Đầu Đức Mẹ phủ voan trắng và mặc áo chùng trắng có dây xanh thắt ngang lưng. Tay Đức Mẹ mang tràng chuỗi cũng màu trắng. . Mariette vừa lần hạt Mân Côi vừa chiêm ngắm Đức Mẹ. Cô bé thấy đôi môi Đức Mẹ mấp máy như đang đọc kinh.

 

Cuộc cầu nguyện trong thinh lặng kéo dài 20 phút. Sau đó Đức Mẹ ra hiệu cho Mariette theo Đức Mẹ tiến về con suối gần đó. Đến nơi, Đức Mẹ bảo cô bé nhúng tay vào nước. Không do dự, Mariette vâng lời làm theo. Xong, Đức Mẹ MARIA giơ tay chỉ con suối và nói với cô bé:


- Giòng suối này dành riêng cho Mẹ. Thôi, Mẹ chào con!


Nói xong, Đức Mẹ biến đi.


Ngày hôm sau, cũng vào lúc 7 giờ tối, Mariette ra vườn và quỳ gối cầu nguyện. Đang cầu nguyện thì cô bé trông thấy Đức Mẹ hiện ra. Lần này, Mariette cất tiếng hỏi:


- Thưa Bà Đẹp, Bà là ai?


Bà Đẹp trả lời:

 

- Ta là Đức Nữ Trinh của Người Nghèo.


Mariette lại hỏi:


- Hôm qua, Bà bảo con suối này dành riêng cho Bà. Câu nói này có nghĩa là gì thưa Bà?


Bà Đẹp giải thích:


- Con suối này dành riêng cho mọi dân nước, để thoa dịu nỗi khổ của các bệnh nhân.


Mariette thưa:


- Con xin cám ơn Bà.


Đức Mẹ MARIA dịu dàng nói thêm:


- Mẹ sẽ cầu nguyện cho con. Thôi chào con.


Ngày hôm sau nữa, tức thứ sáu 20-1-1933, Đức Mẹ lại hiện ra với Mariette. Lần này cô bé hỏi:


- Thưa Bà, Bà muốn gì?


Đức Mẹ đáp:


- Mẹ muốn người ta xây cất một nhà nguyện nhỏ tại đây.


Những lần hiện ra sau đó, Đức Mẹ MARIA lập đi lập lại với cô bé:


- Các con hãy cầu nguyện thật nhiều!


Lần hiện ra thứ 8 và cũng là lần hiện ra sau cùng, xảy ra vào ngày thứ năm 2-3-1933. Lần hiện ra sau cùng này, khuôn mặt Đức Mẹ MARIA thật nghiêm trọng và thật buồn. Đức Mẹ không mĩm cười nữa. Đức Mẹ nói với Mariette:


- Ta là Mẹ Đấng Cứu Thế, là Mẹ THIÊN CHÚA.


Ngừng một lát, Đức Mẹ lập lại lần cuối cùng mệnh lệnh quan trọng:


- Các con hãy cầu nguyện thật nhiều!


Sau đó, Đức Mẹ đặt tay trên đầu chúc lành cho cô bé, vẽ hình Thánh Giá trên trán cô bé và từ biệt cô bé. Mariette sấp mình sát đất và nức nở khóc.


16 năm sau, ngày 22-8-1949, Đức Cha Louis-Joseph Kerkhofs, Giám Mục giáo phận Liège, chính thức nhìn nhận các cuộc Đức Mẹ MARIA hiện ra với cô bé Mariette Beco tại Banneux là những cuộc hiện ra thật. Từ đó vang vọng lời chúc tụng: ”Vinh danh Đức Nữ Trinh của Người Nghèo và chúc tụng Đấng gửi Đức Nữ Trinh đến với chúng con”.

Năm nay - 2008 - nhân kỷ niệm 75 năm Đức Mẹ MARIA hiện ra tại Banneux, hôm thứ ba 15-1-2008, Đức Cha Aloys Jousten, Giám Mục giáo phận Liège sở tại và Đức Cha André Mutien Leonard, Giám Mục giáo phận Namur đã chủ sự Thánh Lễ khai mạc thời kỳ kỷ niệm kéo dài 9 tháng.

 

... Có điềm lớn xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên 12 ngôi sao. Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con. Lại có điềm khác xuất hiện trên trời: đó là một con rồng lớn, đỏ như lửa, có 7 đầu và 10 sừng, trên 7 đầu đều có vương miện. Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất. Rồi con rồng đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi Bà sinh xong là nó nuốt ngay Con Bà. Bà đã sinh được một Người Con, một Người Con Trai, Người Con này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân. Con Bà được đưa ngay lên THIÊN CHÚA, lên tận ngai của Người. Còn người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc; tại đó THIÊN CHÚA đã dọn sẵn cho Bà một chỗ ở, để Bà được nuôi dưỡng ở đó, trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày.

 

Bấy giờ có giao chiến trên Trời: Thánh Thiên Thần Micae và các Thiên Thần của Người giao chiến với con Mãng-Xà. Con Mãng-Xà cùng các thiên thần của nó cũng giao chiến. Nhưng nó không đủ sức thắng được, và cả bọn không còn chỗ trên Trời nữa. Con Mãng-Xà bị tống ra, đó là Con Rắn xưa, mà người ta gọi là ma quỷ hay Satan, tên chuyên mê hoặc toàn thể thiên hạ. Nó bị tống xuống đất, và các thiên thần của nó cũng bị tống xuống với nó. Và tôi nghe có tiếng hô to trên Trời:


”THIÊN CHÚA chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ,


giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức KITÔ của Người,


giờ đây cũng biểu dương quyền bính” (Khải Huyền 12, 1-10).


(”STELLA MARIS”, Mensuel d'informations religieuses, Avril/1993, trang 8-10)

 

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Mục lục

 

SỐNG CHỮ NHÂN

BÀI II : THỰC HÀNH ĐỨC ÁI NHÂN

 

I. YÊU, DÙ KHÓ KHĂN HAY THUẬN LỢI.

Chúng ta, những người Kitô hữu bằng mọi cách thế, đã sống vai trò chứng nhân tình yêu ở giữa cuộc đời. Dẫu có khó khăn hay thuận lợi, từ ngàn xưa và sẽ còn đến muôn đời sau, các môn đệ của Chúa Kitô không bao giờ chùn chân, không bao giờ đầu hàng hoàn cảnh, nhưng bằng tất cả mọi sáng kiến, bằng tất cả những gì có thể thực hiện trong tầm tay của mình, các môn đệ của Chúa sẽ sống đức ái, cao rao đức ái và lăn xả để thực hành cho bằng được tình yêu mà mình đã thừa hưởng từ Chúa Kitô và nên giống như Chúa Kitô: Yêu như Thầy yêu!

Mặc dù chỉ đề cập đến giáo dục, chính Hội đồng Giám mục Việt Nam, trong thư mục vụ 2007 “Giáo dục hôm nay, xã hội và Giáo Hội ngày mai”, đã nói lên nỗi niềm tiếc nuối của mình, vì chưa được thực hành và quản bá lòng yêu thương như mong muốn: “Đáng tiếc là đối với các tổ chức tôn giáo tại Việt Nam, cánh cửa giáo dục vẫn còn khép chặt: tôn giáo chỉ có quyền mở trường tư thục cấp mẫu giáo” (số 19). Nỗi niềm tiếc nuối ấy, đủ cho thấy khao khát sống yêu thương, sống đồng hành với tổ quốc mình, dân tộc mình, muốn cứu những gì đã mất, muốn chung vai gánh lấy những gì mà người Việt Nam đang gánh lấy hầu như quá tải và bế tắc. Bế tắc đến nỗi nhìn vào nền giáo dục, có người thốt lên chua xót: “sai đâu sửa đó”, vì thế “sửa đâu… sai đó”.

Hội đồng Giám mục Việt Nam còn như muốn chia sẻ âu lo của mình khi nhìn thấy vận mạng của cả dân tộc đi xuống. Bởi Hội đồng Giám mục hiểu rằng, xuống dốc giáo dục là xuống dốc không chỉ về kiến thức, nhưng giáo dục mà xuống dốc, sẽ kéo theo nó xuống dốc cả về nhận thức, tri thức, mạnh hơn: sẽ sụp đổ nặng nề về tư cách, nhân văn, nhân phẩm, đạo đức, văn hiến.

Dù thực sự khó khăn, dù “cánh cửa giáo dục vẫn còn khép chặt”, nhưng chính vì khao khát yêu thương và thực hành yêu thương như Thầy đã yêu, cả Hội Thánh tại Việt Nam vẫn cứ phải yêu và sống bằng tình yêu: Người Công giáo Việt Nam “vẫn không ngừng nỗ lực LÀM TẤT CẢ NHỮNG GÌ ĐƯỢC PHÉP ĐỂ THỂ HIỆN SỨ MỆNH NHẬP THẾ, như mở lớp tình thường, lập quỹ học bỗng cho học sinh nghèo hoặc khuyết tật” (số 19). Không có bất cứ bức tường nào, không có bất cứ chướng ngại nào có thể cản lối yêu thương. Hơn nữa, lệnh truyền “Yêu như Thầy” là lệnh truyền cấp bách, thì làm sao có thể để cho lòng yêu thương bị cản lối, làm sao có thể giập tắt tình yêu, một tình yêu kiểu mẫu trên mọi thứ tình yêu, vì đó là tình yêu “như Thầy” đã yêu. Bất cứ ai, dù quyền hành cách mấy, vẫn không bao giờ có thể ngăn chặng lòng yêu thương, nhất là lòng yêu thương ấy xuất phát từ trời cao, là lệnh truyền tuyệt đối của trời cao hiến dâng cho trần thế.

Trong tiếng nói đầy yêu thương và thổn thức của mình, Hội Thánh Việt Nam đành thốt lên: “Giáo Hội Công giáo, với tư cách là tổ chức tôn giáo, đành phải đứng bên lề sự nghiệp giáo dục của xã hội Việt Nam và, vì không có quyền nhập cuộc, đành đóng vai một quan sát viên bất đắc dĩ” (số 19). Ngay khi chỉ là một tiếng nói thổn thức, Hội Thánh Việt Nam cũng đã bộc lộ sự xót xa xuất phát từ lòng yêu thương của mình.

Bởi vậy, như Hội Thánh, chúng ta hãy thực hành lòng yêu thương mọi nơi, mọi lúc. Hãy sống tình yêu: “Yêu như Thầy đã yêu” trong tất cả mọi hoàn cảnh, dù khó khăn hay thuận lợi.

II. YÊU, ĐỪNG NGÃ LÒNG.

Ngày 30.11.2007 vừa qua, được mời phát biểu tại Đại hội Ủy ban Đoàn kết Công giáo tỉnh Bình Dương, Cha Micae Lê Văn Khâm, Tổng Đại Diện giáo phận Phú Cường đã chia sẻ: “Xem quả thì biết cây, xem thành tích thì biết được phong trào đoàn kết hoạt động hiệu quả như thế nào. Số tín hữu Công giáo trong toàn tỉnh chỉ có 51.634/1.050.124 người dân. Rất ít ỏi! Đa số lại nghèo! Thế mà người Công giáo có mặt đều khắp trong mọi lãnh vực hoạt động… Và những con số (được ghi tiếp theo trong báo cáo) rất là lớn!. Từ những kết quả thu hoạch được như thế, tuy là sáng kiến của con người, tôi tin và dám kết luận rằng, những hoạt động này không khác đường lối của Phúc Âm. Từ phía những người Việt Nam Công giáo, tuy khiêm tốn mang hạt cải đi gieo, dù nó góp phần nhỏ nhoi và tiệm tiến, nhưng cũng nhằm hoàn thiện một phần xã hội trần thế, lớn dần lên theo cách của Thầy Giêsu, Chúa chúng ta. Những người Việt Nam Công giáo hay những người Công giáo tại Việt Nam đều có chung một chí hướng là “Phúc Âm hóa” nơi môi trường mình sống, dầu hoàn cảnh có thuận lợi hay không thuận lợi”.

Chỉ trích một đoạn ngắn trong bài phát biểu của Cha Tổng Đại Diện, đủ cho chúng ta thấy, dù đã cố gắng vận dụng những gì nghe được từ bài báo cáo của Ủy ban Đoàn kết để biểu lộ niềm vui, nhưng ẩn trong lớp áo chữ nghĩa như: “nghèo”, “sáng kiến của con người”, “khiêm tốn mang hạt cải đi gieo”, “góp phần nhỏ nhoi và tiệm tiến”, “hoàn thiện một phần xã hội”, “lớn dần”, “hoàn cảnh có thuận lợi hay không thuận lợi”…, Cha Tổng Đại Diện vẫn cho thấy một điều gì đó còn trăn trở, còn chưa trọn vẹn, chưa thỏa mãn.

Ai cũng biết, và biết rất rõ, mọi thực hành sống đạo, sống lòng từ bi bác ái, đối với người Công giáo Việt Nam luôn luôn còn đó những cản trở cách này, cách khác. Dù chưa bao giờ có được sự tự do hoàn toàn như mong muốn, nhưng trong giới hạn có thể làm được, chúng ta hãy làm, hãy nỗ lực đừng để mất cơ hội sống tình yêu thương như Chúa yêu chúng ta.

Biết mình là môn đệ của Thầy Giêsu, dù thế nào đi nữa, chúng ta vẫn cứ sống và sống vươn lên để đạt tới tình yêu “như Thầy”. Chúng ta không có quyền chán nản, không có quyền đầu hàng hoàn cảnh, không có quyền bỏ cuộc. Hãy đổ hết sức lực, đổ hết thời giờ, đổ hết tài năng để làm cho chuẩn mực “Yêu như Thầy” ngày càng lan tỏa, và ngời sáng. Càng không thuận tiện bao nhiêu, càng phải vận dụng đúng mức hoàn cảnh mà mình có được để cao rao tình yêu Kitô giáo bấy nhiêu. Đức ái nhân Kitô giáo không cho phép chúng ta đứng nhìn, không bao giờ ta được dừng lại lòng yêu thương của mình.

III. YÊU LÀ TÌM NHỮNG PHƯƠNG THẾ KHẢ DĨ ĐỂ SỐNG YÊU.

Cũng trong bài phát biểu trên, Cha Tổng Đại Diện nói tiếp: “Sự cộng tác và hợp tác là hai mặt của một bàn tay linh động và đầy chất sống…Nhờ ánh sáng Lời Chúa, người công dân Công giáo biết hòa trộn nhuần nhuyễn cách sống đạo Chúa và cách sống đời thường của mình sao cho hiệu quả cao”.

Cụm từ “biết hòa trộn nhuần nhuyễn”cho thấy sự sáng suốt, tài tình, khéo léo của “người công dân Công giáo” khi biết sống đạo, biết thể hiện tinh thần Tin Mừng của Chúa Kitô giữa đời, trong mọi môi trường mình sống. Có đức tin; có đường lối dịu hòa và từ nhân của Hội Thánh đưa dẫn; có mẫu gương trên mọi chuẫn mực về lòng bác ái yêu thương của Chúa Kitô, Đấng là Thiên Chúa nhưng đã làm người dạy dỗ họ; hay như lời Cha Tổng Đại Diện, có “ánh sáng Lời Chúa” soi rọi, “người công dân Công giáo” đã thực sự trưởng thành trong nhiệm vụ truyền giáo để sống đoàn kết, sống tương thân, sống đức ái nhân cách anh dũng trong mọi tình huống, mọi môi trường mà mình hiện diện.

Đó là phương thế khả dĩ để sống yêu mà người Công giáo đất Việt đã tìm được. Đẹp biết chừng nào khi người Công giáo đất Việt đã và vẫn sống tình yêu của Thầy Chí Thánh, bất kể bị coi thường hay được đón nhận. Họ không bao giờ đố kỵ ai. Ai cũng là đối tượng để họ yêu thương và chuyển tải tình yêu của Thầy.  Tuy còn giới hạn, họ vẫn hết mình tỏ bày tinh thần bác ái Kitô giáo: “Tôi đồng tình với những giới hạn của những hoạt động của Ủy ban Đoàn kết còn tùy thuộc vào hoàn cảnh khó khăn nhất định của mỗi nơi, mỗi địa phương” (phát biểu của Cha Tổng Đại Diện).

Dù sao, họ vẫn tha thiết ước mong môi trường hoạt động cho công cuộc “Phúc Âm hóa” bằng đường lối “Yêu như Thầy” của họ được thông thoáng: “Tôi cũng tin cánh cửa thuận lợi đang mở dần ở phía trước” (Phát biểu của Cha Tổng Đại Diện). Họ xin mọi người hãy nhìn họ thiện cảm và đừng đố kỵ họ: “Tôi không đồng thuận kéo dài ngờ vực, phân biệt và thành kiến vẫn còn tồn tại đó đây” (Phát biểu của Cha Tổng Đại Diện). Họ chỉ sống yêu thương và chỉ muốn bày tỏ tình yêu, làm sáng lên một tình yêu như Thầy của họ đã yêu. Họ có làm gì để đến nỗi phải bị “kéo dài ngờ vực, phân biệt và thành kiến” đến vậy? “Không đồng thuận” là đúng thôi. Bởi nếu sống với nhau, sống bên cạnh nhau mà cứ “ngờ vực”, cứ “phân biệt”, cứ “thành kiến” thì làm sao có thể gặp gỡ, làm sao có thể đến với nhau, làm sao phát triển tình yêu! Mà nếu không có tình yêu cho nhau, người ta sẽ có một cuộc sống nặng nề trên cả ngờ vực, phân biệt, thành kiến. Đó sẽ là một cuộc sống toàn nghi kỵ, thậm chí rình rập nhau, oán hận nhau, kẻ có quyền sẽ hành xử quyền độc đoán trên nhau, trả thù nhau, thủ đoạn với nhau…

Dù hoàn cảnh còn khó khăn, người Công giáo Việt Nam vẫn “biết hòa trộn nhuần nhuyễn”, thì đó mới thực sự là tình yêu đúng nghĩa. Họ đã tìm được phương thế khả dĩ để sống yêu.

Chỉ sợ người ta không biết yêu, người ta để cho trái tim yêu thương của mình chai cứng mà thôi. Bởi lúc đó, dù được yên thân trong hoàn cảnh dễ dãi nhất, người ta cũng chẳng còn một cách thế nào, chẳng còn một cử chỉ nào để tỏ lòng yêu thương... Chỉ cần có trái tim yêu thương, chỉ cần người ta biết dàn trải lòng mình ra với anh chị em, thì dù có đối đầu với sự khắc nghiệt đến mức độ nào, người ta vẫn có thể bày tỏ lòng yêu thương, vẫn có thể đến với nhau chân tình, vẫn có thể tìm được phương thế khả dĩ để thực hành lời dạy “Yêu như Thầy yêu”. Người Công giáo Việt Nam là như thế. Họ đã biết yêu như Thầy của họ. Tình yêu không có một rào cản nào có thể cản lối. Và như vậy, họ sẽ yêu, vẫn yêu, còn yêu mãi mãi, mặc cho bất cứ nghịch cảnh nào giăng mắc. Đó chính là phương thế khả dĩ họ đã sáng suốt tìm ra để sống yêu.

Đức ái nhân của người Công giáo Việt Nam sao mà tinh tuyền lộng lẫy!

IV. YÊU LÀ TÌM PHỤC VỤ GIÁ TRỊ LÀM NGƯỜI CỦA CON NGƯỜI.

Phục vụ giá trị làm người của con người phải là trách nhiệm hàng đầu của việc “Phúc Âm hóa” trần thế hôm nay. Giá trị làm người của con người mà để bị đi xuống, nặng hơn, để bị đánh mất, thì mọi công cuộc, mọi việc làm nhằm thăng tiến con người trở thành vô nghĩa. Hội Thánh Công giáo, một khi nhận lệnh truyền của Thầy “Hãy yêu như Thầy yêu các con”, thì cũng sẽ tiếp nối con đường mà Thầy đã vạch ra là phục vụ giá trị làm người của con người, luôn luôn tìm cách thăng tiến đời sống của con người. Nói ngắn gọn, Hội Thánh Công giáo đã không làm gì khác hơn ngoài con đường tình yêu đúng nghĩa. Và để yêu đúng đắn như thế, Hội Thánh đã lên đường tìm kiếm con người qua mọi cách thức. Ở đây chỉ xin nêu lên mấy cách thức như:

1. Giáo dục:

“Giáo Hội Công giáo luôn quan tâm đến sự giáo dục nhân bản và đào tạo kiến thức con người theo đúng phẩm giá con người” (Phát biểu của Cha Tổng Đại Diện). Bởi Hội Thánh hiểu rằng: “Mọi người đều có quyền hưởng thụ một nền giáo dục xứng đáng với sứ mệnh cao cả của mình” (Phát biểu của Cha Tổng Đại Diện).

2. Nhu cầu phượng tự:

Nhu cầu phượng tự là nhu cầu tâm linh lớn lao. Chính trong việc cầu nguyện và thờ phượng Chúa là cách giáo dục con người hoàn hảo nhất, đưa con người đến Thiên Chúa, gặp gỡ Thiên Chúa, nhận lấy tình yêu vô cùng của Thiên Chúa để rồi sẽ rót đầy trái tim yêu thương của mình, làm tràn vỡ ra nơi tất cả những ai mình đến, mình sẻ chia và sống với.

Bởi vậy không có nơi nào tốt lành bằng nơi đã được xây dựng nhà thờ. Ngôi nhà thờ là mái trường hoàn hảo nhất đưa dẫn con người về đường ngay nảo chính: “Chính nơi này (nhà thờ – chú thích của người viết) giúp cho người tín hữu thường xuyên đến cầu nguyện, sám hối, định tâm hướng thiện và trở nên người tốt. Điều này rất lợi cho xã hội. Một nhà thờ được dựng lên có khả năng xóa bỏ hẳn nhiều nhà tù. Giáo dục được một người trở nên tốt là đồng nghĩa sản sinh một thế hệ tốt tiếp theo. Nên chi rất cần những cơ sở thờ phượng ở những nơi có đông dân cư sinh sống, như khu công nghiệp, khu dân cư mới” (Phát biểu của Cha Tổng Đại Diện).

3. Quan tâm đến đức công bằng:

Hơn bao giờ hết, xã hội mà chúng ta đang đồng hành với nó, đã có nhiều dấu hiệu loại trừ đức công bằng ra khỏi đời sống con người. Người sống thiếu công bằng nhiều đến nỗi, có những lúc, ai đó sống công bằng như Chúa Kitô dạy, lại bị coi là không giống ai, thậm chí bất thường. Cái bình thường lại trở nên bất thường, còn thiếu công bằng là cái bất thường, là tội ác, là vi phạm luật lương tâm, là chất dơ phải loại trừ, lại trở nên bình thường, thì sự sống con người bị đe dọa, xã hội mà con người đang nhập cuộc với nó, sẽ toàn là những căn bệnh ung thư giết chết mọi giá trị nhân văn, mọi giá trị làm người của con người.

Vì thế, để sống tình yêu của Chúa Kitô, yêu như Chúa yêu, chúng ta, những người Kitô hữu chân chính phải dứt khoát sống một đời sống công bằng và loan báo đức công bằng. Chúng ta tin rằng, sống công bằng cũng là biểu lộ của đức ái nhân.

Thư chung năm 2006 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nhấn mạnh tới đức công bằng: “Lòng mến Chúa yêu người thôi thúc chúng ta góp phần xây dựng một xã hội trong đó con người có điều kiện để sống xứng với phẩm giá của mình. Bởi vì con người là hình ảnh của Thiên Chúa, nên mọi người có quyền được tôn trọng và phát huy những khả năng Chúa ban để phục vụ xã hội một cách hiệu quả nhất. Đồng thời, bởi vì con người là anh em của nhau, được tác tạo do quyền năng của Thiên Chúa và là đối tượng của ơn cứu chuộc trong Chúa Giêsu Kitô, nên mỗi người cần được đối xử với lòng kính trọng và yêu thương chân thành như là mục đích của sự phát triển toàn diện, để họ không bao giờ bị biến thành phương tiện cho sự phát triển kinh tế, cho sự thăng tiến xã hội của bất kỳ tổ chức hay thế lực nào.

Để xây dựng một xã hội công bằng, ngoài việc giáo dục để biết tôn trọng những quyền căn bản của con người, cũng cần có một đường lối thích hợp bảo đảm thực hiện được quyền này. Công việc này đòi hỏi sự đóng góp từ nhiều phía. Là Kitô hữu, được mời gọi để trở thành ánh sáng cho thế gian, muối cho đời, men trong bột, chúng ta hãy tập trung xây dựng một cộng đoàn trong đó mọi thành phần đều được yêu thương và được đối xử công bằng.

Sự công bằng cần phải đi đối với lòng tônt rọng sự thật, vì tôn trọng sự thật là điều kiện để xây dựng một cộng đoàn yêu thương. Chúng tôi tin chắc rằng, gương sáng phát xuất từ cộng đoàn của những người con cái Chúa sẽ có ảnh hưởng tích cực trong xã hội chúng ta” (Sống Đạo Hôm Nay – số 7: Góp phần xây dựng một xã hội công bằng).

Lm. VŨ XUÂN HẠNH

 

Mục lục

 

TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH

 

Bữa cơm gia đình ngày Tết

Với mỗi gia đình Việt, bữa cơm tối thường là thời điểm tất cả mọi thành viên được ngồi lại sau một ngày làm việc. Chính vì thế, bữa tối mang nhiều ý nghĩa về mặt gắn kết tình cảm và trách nhiệm gia đình. Không khí Tết sẽ đến cùng những bữa cơm như vậy.

Với mỗi gia đình Việt, bữa cơm tối thường là thời điểm tất cả mọi thành viên được ngồi lại sau một ngày làm việc. Chính vì thế, bữa tối mang nhiều ý nghĩa về mặt gắn kết tình cảm và trách nhiệm gia đình. Không khí Tết sẽ đến cùng những bữa cơm như vậy.

Gia đình anh Hoàng ở quận Tân Bình sống xa người thân từ nhiều năm nay. Anh chị và các cháu thường ăn tết xa nhà và chỉ có dịp hè là ra thăm ông bà.

Tuy nhiên năm nay, anh phải đi công tác đúng dịp giáp tết. “Đã lâu lắm tôi mới được ngồi ăn cơm tối bên bố mẹ và gia đình người anh trai. Dù bữa cơm cũng bình thường như mọi ngày, nhưng tôi thấy xúc động vô cùng. Những câu chuyện ngày tết, một mâm cơm đông người với nhiều thế hệ khiến tôi giật mình nhận ra hình như tụi trẻ nhà mình thiệt thòi quá”.

Trở về sau chuyến công tác, anh đặt ngay vé máy bay cho vợ cùng hai chú nhóc kháu khỉnh kịp ra đón Tết cùng cả nhà. “Tết không phải chỉ là phố phường tấp nập, quần áo mới hay món tiền thưởng cuối năm. Với tôi, tết chính là bữa cơm tối cùng gia đình sum họp đông đủ để thấy người già còn mạnh khoẻ và con cái đang lớn lên từng ngày”, anh Hoàng giải thích.

Tưởng chừng việc tạo nên không khí gia đình vui vẻ trong mấy ngày tết không hề khó, bởi tết đã là vui rồi. Nhưng điều quan trọng nhất để có được không khí đó chính là sự đoàn tụ. Dù cho ngôi nhà của bạn có sạch sẽ, đẹp đẽ đến đâu mà bữa cơm tối chỉ có vài người thì không khí vui vẻ cũng chẳng thể nào có được.

Gia đình chị Hương ở quận 5 sống cùng bố mẹ. Anh chị đi làm cả ngày nên gia đình chỉ đông đủ trong bữa cơm tối. “Nhiều lúc cũng muốn ra tiệm ăn cho đỡ phải làm, nhưng càng gần tết đúng là càng muốn về nhà ăn cơm cùng ông bà và tụi nhỏ”, chị Hương tâm sự.

Càng gần tết, những bữa cơm gia đình lại ấm hơn bởi đề tài xuân. Từ giá cả hàng hoá cho đến những dự định cho mấy ngày tết, tất cả đều có một không khí riêng đặc biệt ấm áp. “Những mệt mỏi công việc tan biến ngay khi cùng cả nhà bàn bạc chuẩn bị tết. Những bữa cơm như vậy không cần gì nhiều mà vẫn thấy đầy đủ”, chị Mai Lan chia sẻ trên diễn đàn webtretho.

Những ngày tết là thời điểm vui nhất của trẻ em. Các em vừa được nghỉ ngơi và vui chơi thoải mái, vừa được bố mẹ, ông bà mừng tuổi, được mặc quần áo đẹp. Nhưng bố mẹ cũng nên giúp con cái mình dần dần hiểu được giá trị của ngày tết không phải chỉ là vật chất mà quan trọng hơn là giá trị tinh thần.

“Vợ chồng tôi đưa các cháu về quê vào rằm tháng chạp. Cảnh quê thì nghèo, lại thêm mưa phùn gió rét khiến lũ trẻ không vui vẻ gì. Cho tới khi ngồi vào mâm cơm cùng ông bà, ấm áp và đầy đặn thì chúng mới thực sự hiểu được giá trị của những gì mình đang có”, anh Lê Thắng, một kiến trúc sư đang sống tại Hà Nội kể.

Vợ chồng anh rất vui khi sau những lần về quê, các con anh đã có trách nhiệm hơn rất nhiều với gia đình và biết quan tâm hơn tới những người thân trong gia đình.

Cụ Dư năm nay 80 tuổi, sinh ra trong một gia đình ở Hà Nội, kể: “Hồi đó gia đình không khá giả gì vì chỉ là buôn bán nhỏ thôi. Nhưng tôi vẫn nhớ các cụ luôn dạy rằng dù có đi đâu thì đến bữa cơm chiều 30 tết cũng phải về thắp một nén hương cho ông bà tổ tiên. Cha tôi đã dạy rằng đó không phải về cho đủ mặt, mà điều quan trọng là trách nhiệm với gia đình, sự gắn kết giữa từng thành viên và các thế hệ sẽ bền chặt hơn”.

Cụ Dư kể rằng chính vì những bài học của người cha mà với cụ, cái tết buồn nhất của cả gia đình chính là năm mà bữa cơm bị trống một chỗ do người anh trai cụ hy sinh trong chiến tranh.

Một năm vất vả mưu sinh sẽ khiến nhiều bữa cơm gia đình trở nên tạm bợ và thoáng qua. Nhưng sẽ không thể có được cái tết thực sự và bầu không khí ấm cúng gia đình nếu những bữa cơm cuối năm cũng bị coi nhẹ.

Thanh Minh

Mục lục

Cẩn thận với những “cú sốc” tâm lý

Thời gian gần đây, bão lũ, tai nạn giao thông, sập cầu… xảy ra liên miên khiến nhiều người chết đã gây bao nỗi kinh hoàng cho những người sống sót lẫn thân nhân của người xấu số. Người chết đã đành, còn người sống không phải ai cũng có thể vượt qua những nỗi đau mất mát.

Không nên coi thường

Không ít người bị chấn thương tâm lý nặng khi chứng kiến cảnh tượng thảm khốc, gọi là khủng hoảng tinh thần. Đây là một hội chứng tâm lý khi con người trải qua một biến cố hãi hùng gắn liền với sự đe dọa tính mạng. Người bị bệnh này có thể là người trực tiếp hoặc gián tiếp chứng kiến một cảnh hãi hùng hay liên quan đến biến cố nào đó.

Hội chứng này được biết đến vào thế chiến thứ nhất qua tên “shell shock” xuất phát từ những người lính ra trận. Với những cảnh tượng kinh hãi của chiến tranh: chết chóc, thân thể các chiến binh bị thương, tay chân bị cắt đứt, máu me lai láng… thì dù họ có may mắn được sống sót nhưng tâm hồn đã trở nên “lơ lửng”. Hội chứng này được khoa tâm thần hiện đại chia làm ba nhóm triệu chứng tâm lý chính là: cảm nhận trở lại (có cảm giác như biến cố đó lập lại ngay trong hiện tại), trốn tránh (cố gắng không suy nghĩ hay tránh xa những nơi có người và cảnh vật nhắc lại biến cố đó hoặc trầm cảm) và nhạy cảm quá độ (mất ngủ hay ngủ không yên giấc vì ác mộng, hay giật mình, hay giận dữ, lúc nào cũng có cảm giác đề phòng…).

Các triệu chứng này nếu nặng thì trí nhớ suy sụp, không tập trung được và mặt mày thường bơ phờ. Nhưng vì ai cũng sợ bệnh “điên” nên khi đi khám bệnh ít khi khai hết những triệu chứng tâm lý ấy. Những triệu chứng này lúc mới nảy sinh chỉ ảnh hưởng qua thái độ bệnh nhân (bực bội, buồn chán,...) nhưng khi để lâu vài năm sẽ nặng hơn và lan ra thành hành động bất thường không kiềm chế được (đập phá đồ đạc hay đánh đập vợ con). Những bệnh nhân này thường rất nhạy cảm với phản ứng phụ của thuốc vì hệ thống thần kinh họ bị căng thẳng. Một chút khó chịu trong cơ thể cũng được nhân lên gấp bội. Vì thế, họ ít khi uống thuốc đều, thậm chí còn tự ý giảm liều thuốc bác sĩ cho nhưng không dám nói bác sĩ biết. Vì thế mà hiệu quả trị liệu rất thấp nếu bác sĩ không đề cập đến triệu chứng tâm lý.

Đừng để quá muộn

Đa số bệnh tâm thần khi được phát hiện đã trở thành bệnh kinh niên cần trị liệu lâu dài. Khi nghe bệnh nhân than bị phản ứng phụ của thuốc thì nhiều gia đình khuyên ngừng thuốc Tây lại và nên trị bằng dược thảo. Nhưng hiện nay chưa có loại dược thảo nào trị được các bệnh tâm thần loại nặng một cách hữu hiệu.

Có người bị bệnh dạng nhẹ vẫn làm việc được. Tuy nhiên hệ thống thần kinh của họ nhạy cảm và dễ bị buồn phiền. Họ có thể chịu đựng một thời gian đến khi có một biến cố tiếp theo xảy ra như mất việc, người thân bệnh nặng hay bị tai nạn thì những hội chứng khủng hoảng tinh thần ấy xảy ra mãnh liệt. Bác sĩ không hiểu rõ hoàn cảnh bệnh nhân, dễ chẩn bệnh lầm hoặc cho rằng người bệnh phản ứng quá đáng hay giả bộ bệnh để được quyền lợi này nọ.

Người bị khủng hoảng tinh thần rất dễ giận dữ nên gia đình và bạn bè hay xa lánh. Nỗi căm hận, hay lo sợ chất chứa trong lòng lâu ngày càng dễ tạo căng thẳng tinh thần khó làm họ vui được. Họ có những suy nghĩ thường gắn liền với biến cố đã qua. Họ muốn loại trừ kẻ gây ra khủng hoảng cho họ trong quá khứ, nhưng lúc đó họ không làm gì được. Do đó bệnh nhân dễ bị nghiện thuốc lá và rượu vì những chất đó tạo sảng khoái tâm lý nhất thời, nhưng dùng lâu dần sẽ bị nghiện và mang đến nhiều bệnh khác.

Triệu chứng

Khi bị căng thẳng ngắn hạn, cơ thể ta tiết ra chất Norepinephrine (NE) gây hưng phấn nhiều hệ thống trong cơ thể. Ở hệ thống tuần hoàn nó làm áp suất tăng, tim đập nhanh hơn, ở hệ thống hô hấp nó làm tăng hơi thở, ở da thì làm các mạch máu nhỏ co lại tạo cảm giác lạnh tay chân hay cảm giác tê. Khi không đủ máu tới các cơ bắp thời gian lâu sẽ bị đau nhức hay có cảm giác mỏi. Ở hệ thống tiêu hóa làm cho ta biếng ăn. Hệ thống thần kinh kích thích nhiều làm mất ngủ.

Khi NE bài tiết nhiều có thể làm giảm lượng serotonin (5HT), một chất tiết ra trong não bộ làm cho cường độ những phản ứng tình cảm bớt lại. Khi thiếu 5HT thì những tình cảm như giận, lo âu sẽ diễn ra rất mạnh và rất khó kiềm chế. Khi căng thẳng, lo sợ ám ảnh lâu ngày, hệ thống kích thích tố (hormone) sẽ bị thay đổi. Lượng cortisol trong máu sẽ tăng lên. Cortisol có công dụng làm giảm viêm. Tuy nhiên nếu cortisol tiết ra nhiều quá thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến não bộ. Nó có thể làm tổn thương các tế bào ở não bộ, ảnh hưởng đến trí nhớ.

Cortisol còn ảnh hưởng đến những triệu chứng tâm thần. Những người bệnh xơ gan trị bằng cortisol hay bị trầm cảm, tình cảm bất thường và trong trường hợp nặng bị mất khả năng nhận ra thực tế, như có ảo thính hoặc ảo thị. Những hiện tượng tâm thần do cortisol mất điều hòa có nhiều trùng hợp với những triệu chứng của khủng hoảng tinh thần. Đa số những bệnh tâm thần là những bệnh của não bộ. Não bộ có những vùng ảnh hưởng đến cơ thể như vùng cơ động và vùng giác quan, cũng như có những vùng ảnh hưởng đến tính tình và hành động. Khi những vùng ảnh hưởng đến tính tình bị bất ổn thì gây ra triệu chứng tâm thần.

Điều trị thế nào

Như đã phân tích ở trên, bệnh khủng hoảng tinh thần có ảnh hưởng rất sâu rộng từ sinh lý não bộ, đến tâm lý và cuộc sống gia đình và xã hội. Muốn trị bệnh hữu hiệu phải áp dụng nhiều hơn một cách trị liệu, gồm thuốc men, tâm lý trị liệu, gia đình trị liệu, và ngay cả việc phải áp dụng tôn giáo trong cách trị liệu.

Nhóm thuốc SSRI (selective serotonin reuptake inhibitor) được cơ quan dược phẩm công nhận để trị bệnh này. Chất thuốc này dùng để tăng lượng serotonin (5HT). Khi 5HT tăng thì cường độ các triệu chứng tâm thần được giảm bớt. Tuy nhiên nếu bệnh hiện diện lâu ngày ảnh hưởng qua hệ thống cortisol thì trị liệu sẽ giảm bớt hữu hiệu. Có khi cần phải dùng nhiều loại thuốc phối hợp mới có kết quả.

Tâm lý trị liệu đang phổ biến là giúp bệnh nhân tập nhận ra những tư tưởng bi quan và tập suy nghĩ sao cho thích hợp hơn với hoàn cảnh. Gia đình trị liệu giúp những thành viên trong gia đình thông cảm lẫn nhau và đối thoại một cách hiệu quả. Ngoài ra, niềm tin trong tôn giáo cũng đóng một phần trong việc trị liệu.

 Có thể nói hơn 90% những người bệnh tâm thần Á châu lần đầu tiên đi khám bệnh không khai các triệu chứng tâm thần. Những tình cảm “xấu” như giận dữ, tủi phận, tủi nhục, nghiện rượu thật khó mà khai với bác sĩ. Vì thế những bệnh nhân này đành âm thầm nuốt lấy những nỗi khổ cho qua ngày tháng. Nếu họ có khai với bác sĩ thì chỉ khai những triệu chứng thông thường như mất ngủ, hay quên, đau nhức... khiến bác sĩ khó chẩn đoán đúng bệnh.

BS. Thái Huy Phong

Theo Báo Giáo Dục

Mục lục

 

 

ĐỌC SÁCH

 

DẤU CHÂN CỦA THẦY

 

 (Mt 9, 9-13)

 

Thầy kính mến,

Matthêu kể chuyện mình được Thầy chọn làm môn đệ. Chắc ông sửng sốt bỡ ngỡ lắm. Cả thị trấn Caphácnaum ngẩn ngơ. Các đệ tử của Thầy cũng không ngờ … Bản thân con cũng không thể tưởng tượng nỗi. Chỉ có ba từ “Hãy theo tôi” của Thầy làm mọi người chới với. Chỉ vì Matthêu là người thu thuế. Chỉ vì thái độ của Thầy lúc đó và sau đó.

1. Matthêu là người thu thuế.

Giáo Hội và xã hội Do Thái thời ấy coi người thu thuế là người vừa phản đạo vừa phản quốc và cho họ đứng hàng ngang với gái điếm, người Samari và người ngoại. Bốn hạng người này bị loại trừ bằng vạ tuyệt thông cách ly. Không ai được quan hệ với họ. Không ai thèm chơi với họ. Họ chỉ chơi với quân xâm lược La mã và những tín đồ cặn bã của các Hội đường. Matthêu biết tất cả những điều ấy nhưng ông vẫn bất chấp. Ong mất tất cả, nhưng được rất nhiều tiền. Chánh quyền La mã nhắm mắt cho ông hà lạm và bóc lột đồng bào, để mua lấy sự trung thành của một con chó săn.

Matthêu là người như thế đó. Thế mà Thầy đã vẫy gọi ông, chọn ông làm Tông đồ, tức là Giám mục ngày nay. Không ai hiểu nổi.

Matthêu không hiểu được, vì chính ông tự biết mình là gì rồi. Lý lịch của ông đen quá, đen hơn mõm chó nhiều. Đã lỡ đâm lao, ông đành theo lao, không bao giờ trở lại. Cũng chẳng ai cho ông trở lại. Người đạo đức nhất cũng phải nói rằng: “Những thứ ấy tôi đuổi cho khuất mắt”. Toàn dân ghét bỏ ông. Bề trên trong đạo xua đuổi ông. Trẻ con nhổ nước miếng khi gặp ông. Chỉ còn “bọn không cắt bì” niềm nở với ông. Chỉ còn đồng tiền La mã giơ tay chào ông … Tận cùng bằng số. Thế mà vị ngôn sứ cao quý lại tốt với ông như thế. Chẳng biết thật hay mơ.

Các môn đệ của Thầy thì bất bình quá lẽ. Đưa Matthêu vào đoàn Tông đồ, thì có khác gì cào bằng họ với tên phản quốc và phản đạo. Một con sâu làm rầu nồi canh, huống hồ là một con chuột chết thối tha. Nhục lắm! Ưc quá!

Các đấng bề trên trong đạo thì bĩu môi khinh dể. Họ đánh giá Thầy là nhập băng với bọn đàng điếm, là phá luật phá lệ. Từ thời Môsê tới bây giờ họ chưa thấy có một vị ngôn sứ nào làm như vậy. Trên các tòa giảng của Hội đường, đặc biệt là tại Caphácnaum, các vị kinh sư sẽ nguyền rủa Thầy về tội có quan hệ với người thu thuế.

Chính con cũng không tài nào hiểu được Thầy. Nếu con là Phêrô, con sẽ nói toạc ra với Thầy rằng: “Một là con, hai là hắn. Thầy phải chọn một trong hai đứa”. Không phải chỉ một mình con, ngay cả giáo luật hiện hành cũng không cho phép đưa vào hàng giáo sĩ và giáo phẩm một ứng sinh quá đáng như thế.

2. Thầy đến nhà Matthêu ăn tiệc.

Được Thầy vẫy gọi, Matthêu cho là một vinh dự quá lớn. Ong phải làm tiệc mừng. Nhưng một điều đáng mừng hơn nữa đó là ông giải nghệ. Ong thôi thu thuế. Bữa tiệc ấy có ý nghĩa thứ hai là giã từ đồng nghiệp. Ong mời Thầy. Thầy không từ chối theo Luật: đến nhà người thu thuế, thì mắc uế.

Điểm mặt những người dự tiệc, ai cũng phải lắc đầu: quân ngoại đạo, bọn thu thuế bị vạ tuyệt thông, bọn bợm nhậu vô lương tâm và … Thầy. Thầy ngồi ăn với bọn ngoại đạo và bỏ đạo! Thầy quên luật, hay Thầy áp dụng luật một cách linh động? Hay là Thầy cố tình phá luật? Luật và lệ Do Thái giáo không tha thứ cho Thầy vì bất cứ lý do nào. Bởi thế sau bửa tiệc là có vấn đề ngay.

Các ông Pharisêu hạch sách các môn đệ của Thầy: “Tại sao Thầy trò các anh lại ngồi ăn với bọn tội lỗi?” Dĩ nhiên là các môn đệ của Thầy chỉ biết gãi đầu gãi tai, cứng họng không nói được một lời.

Dư luận quần chúng chắc cũng ồn ào lắm và không thuận lợi cho Thầy. Họ không thể đồng cảm với Thầy được. Đó là truyền thống, truyền thống ngàn đời, truyền thống thánh thiện, thấm sâu vào dòng máu của tín đồ. Đây mới là năm thứ nhất của đời truyền giáo. Theo sự tính toán của Daniel Rops thì đây mới là tháng thứ ba của năm thứ nhất. Giáo lý của Thầy chưa thấm vào não tũy của quần chúng. cuối năm thứ ba dư luận quần chúng cũng vẫn chưa thay đổi. Bằng chứng là khi Thầy ngỏ ý với ông Dakêu đang ngồi vắt vẻo trẻn cây vả là Thầy muốn đến ở đậu nhà ông, thì Luca kể rõ rằng: “Mọi người xầm xì với nhau rằng: Ông này lại vào trọ nhà người tội lỗi”(Lc19,7). Ong Dakêu là trưởng ty thuế vụ thành Giêrikhô.

Có một điều khôi hài là các ông Pharisêu không thắc mắc với Thầy, mà lại nạt nộ môn đệ của Thầy. Họ kiềng mặt Thầy. Họ cãi không lại Thầy. Trăm trận trăm thua. Nếu có ai phỏng vấn họ: “Tại sao các thầy không trực tiếp nói với ông Giêsu? Bọn học trò của ông ấy dốt thấy mẹ”, thì các ông ấy sẽ chống thẹn: “Một thằng nói ngang, cả làng không cãi lại”. Đó là cách bảo vệ danh dự của bề trên. Cãi không lại thì chê là cãi ngang.

3. Các môn đệ chuyển đến Thầy lời nạt nộ của các đấng bề trên là Pharisêu. Thầy tuyên bố lập trường của mình: “Người đau ốm mới cần thầy thuốc. Thầy đến để kêu gọi người tội lỗi sám hối”. Thầy ví von hay quá. Lý luận kiểu đó thì vừa rõ vừa sâu thăm thẳm. Người dốt nghe cũng hiểu. Người giỏi thì cứ muốn ngẫm nghĩ. Càng nghĩ càng thấm. Thầy ơi. Thầy tuyệt vời.

Đến bây giờ thì con hiểu rồi. Con không còn tức Thầy nữa.

Đến với người thu thuế không có nghĩa là đồng lõa với họ. Đến với họ, để mở cho họ con đường trở về. Loại trừ là thất sách, là mất sạch, là tiêu diệt chớ không cứu vớt. Từ thời Môsê cho đến lúc ấy, loại trừ người tội lỗi là đường lối mục vụ thánh. Thầy đến. Thầy làm lại mọi sự. Hay quá! Vaticanô II rất cảm kích đường lồi mục vụ của Thầy nên đã dõng dạc tuyên bố: “Người tội lỗi vẫn còn nhân phẩm. Làm nhục người tội lỗi là xúc phạm đến nhân phẩm”.

Matthêu trở về, Matthêu đi truyền đạo với Thầy. Biến cố đổi đời của Matthêu tạo nên một phong trào trở lại. Người thu thuế, gái điếm ùn ùn đến nghe Thầy giảng. Họ thích nghe lời Thầy không phải vì Thầy giảng hay mà thôi, mà vì còn được Thầy yêu thương và quý mến. Tình yêu của Thầy đã khuất phục người lỡ lầm trở về. Như vậy rõ ràng là Luật Môsê sai, dù nó đã tồn tại và được trọng vọng suốt mười ba thế kỷ.

Thầy kính mến,

Con đã nặng lời với Thầy, vì con không hiểu. Bây giờ con hiểu rồi. Xin Thầy tha thứ cho con.

 

Lm. Piô Ngô Phúc Hậu

Mục lục